GỐC TÍCH NGƯỜI MINH HƯƠNG Ở HỘI AN * PHƯƠNG-DUY

21 Tháng Mười Một 201412:00 SA(Xem: 33383)
GỐC TÍCH NGƯỜI MINH HƯƠNG Ở HỘI AN
 

PHƯƠNG-DUY

 
chuaphuckienhoian
Chùa Phúc Kiến - Hội An
Nguyên rất vui khi nhận được thư hồi đáp khá nhanh của Thanh, một người em họ đang định cư tại Đài-Loan.
“Kính Anh Hai,
Em đã nhận được thư của anh, đúng như anh nhận xét; sau khi Trung-Hoa quốc gia của Tưởng Thống-Chế chạy ra hải đảo Đài-Loan năm 1949, dòng họ “xa xưa” của chúng ta bên lục địa cũng có nhiều gia đình chạy sang đấy. Em đã dò hỏi và đã tìm ra “nguồn gốc”, còn muốn trở về nguồn hay không là do anh quyết định! Vậy nhận được thư này, xin anh cho em biết gấp ý định của anh.
Nhờ Anh chuyển lời em kính thăm Chị và chúc “nhà văn” sáng tác mạnh hơn nữa. Gia đình chúng em ở bên này hàng tuần đều đặn lên “net” đọc bài của chị Hai đấy!
Thân mến.”
Chỉ có vài dòng chữ hồi đáp của người em họ đang giảng dạy ngôn ngữ tại đại học nơi hải đảo xa xôi đó đã làm Nguyên phấn khởi, vì ý nguyện từ lâu của chàng sắp thành tựu.
Trước 1975, Nguyên đã tốt nghiệp đại học vàlà giáo sư dạy văn chương và sử địa. Cũng có thể vì méo mó nghề nghiệp hay vì tính tò mò, nên chàng thích đọc các cuốn gia phả của dòng họ chàng, bên nội cũng như bên ngoại. Cuốn gia phả để ở nhà thờ tộc - mà còn gọi là Tự đường - đã lâu năm mà con cháu chẳng ai buồn cầm một lần đọc qua cho biết nguồn gốc dòng họ... tổ tiên phát xuất từ đâu, khi nào? Trái lại, Nguyên lúc nào rảnh là vào tự đường đọc đi đọc lại các cuốn gia phả một cách say mê như đọc truyện kiếm hiệp của nhà văn Kim-Dung. Nhờ các cuốn gia phả bám đầy bụi thời gian này mà tập luận văn tốt nghiệp đại học của Nguyên đã được hội đồng giám khảo chấm điểm cao.
Nguyên mở tập Gia phả và đọc lại. Đây chỉ là các bản “photocopy” trước khi gia đình Nguyên được phép định cư tại Hoa-Kỳ. Bản chính dĩ nhiên đời đời nằm ở Tự đường bên cạnh các bài vị của các vị tổ tiên đã khuất của chàng.
“Năm 1644, sau khi thôn tính nhà Tây Minh, Mãn Thanh đặt ách thống trị khắc nghiệt lên dân tộc Trung-Hoa. Tìm mọi cách xóa bỏ cơ chế Minh Triều, nhất là nỗ lực đồng hóa đời sống văn hóa cùng mọi sinh hoạt khác theo Mãn Thanh. Triều đại mới không dùng quan tướng của Minh Triều mà còn chế tài họ, hoặc trục xuất những kẻ có ảnh hưởng với nhân dân ra khỏi nước. Riêng tầng lớp giàu có, các thương nhân, đại địa chủ thì bị sách nhiễu  khó bề sống nổi. Hai thành phần này cùng một số sĩ phu yêu nước đành phải rời quê hương đi tìm đường tỵ nạn hoặc tìm nơi ẩn mình chờ cơ hội phục quốc...
Đó là nguyên nhân chính đã thúc đẩy, đưa số người Trung-Hoa lưu lạc khắp nơi trên thế giới trong các thế kỷ trước. Bấy giờ tại một tỉnh trù phú tại Trung Phần Việt-Nam: Quảng-Nam là nơi có nhiều người ngoại quốc đến mua bán và truyền đạo Thiên Chúa. Ba họ Tẩy, Ngô và Trương (tục gọi là TAM GIA) đưa gia đình đến ty nạn tại nơi này vì họa Mãn Thanh. Đây là ba gia đình đầu tiên từ đầu thế kỷ 17 đã lập nên “cộng đồng người Minh-Hương” sau này tại Việt-Nam.
Nguồn gốc ba họ này thuộc huyện Chiếu-An, tỉnh Phúc-Kiến, Trung-Quốc.
Đến đầu thế kỷ 18 (1700 - 1730) một đợt người Hoa gồm 10 gia đình (gọi là THẬP LÃO) đến định cư tại tỉnh Quảng-Nam, mang sáu họ và một hòa thượng có pháp danh HUỆ HƯỜNG. Đó là các họ Chu, Huỳnh, Khâm, Thuấn, Thái và Trương. Họ Trương THẬP LÃO này khác với họ Trương TAM GIA đến từ thế kỷ trước. Họ phân biệt bằng hai nhà thờ tộc khác nhau: Trương Đôn Mục và Trương Đôn Hậu. Tông tộc của hai họ này ở cùng sinh quán, cùng hoàn cảnh, cùng chí hướng, nhưng không cùng huyết thống.” (tài liệu trên được khắc trên văn bia taị chùa Phúc Kiến, phố cổ Hội-An) “Lúc đầu, Thập Lão đến Quảng-Nam bằng đường biển , vào CỬA ĐẠI, rồi ngược sông Thu Bồn, tạm cư làng Trà-Kiệu, thuộc huyện Duy-Xuyên; lấy nghề buôn bán làm sinh kế như những đồng hương đến trước thuộc nhóm Tam Gia. Sau một thời gian, Thập Lão nhận thấy nơi đây có nhiều trở ngại cho việc buôn bán vì quá xa biển, nên dời xuống Trà- Nhiêu, Chợ Bà là những làng nằm hai bên con sông Trường Giang gần biển Cửa-Đại cuối huyện Duy-Xuyên để tiện việc kinh doanh.
Tại đây Thập Lão xây một ngôi cổ tự thờ Quan Văn Trường. Di tích Quan-Thánh miếu hiện nay vẫn còn. Do vị trí địa dư giữa Chợ Bà và Thanh-Hà và do sự liên hệ giữa những người trong Tam Gia với Thập Lão, có chung hoàn cảnh, có chung nghề nghiệp, nên Thập Lão quyết định dời về Thanh-Hà nơi Tam-Gia đã định cư trước. Cộng đồng “người Minh-Hương” (người Minh lưu vong) mở những lớp dạy văn hóa, phong tục Trung-Hoa cho con cháu và những dâu, rể của cộng đồng này. Ước nguyện to lớn là cộng đồng người Minh lưu vong không quên nguồn gốc. Tại Cẩm-Hà, các vị tiền bối qua trước xây một ngôi chùa lớn mang tên “Cẩm Hà Cung”. Chùa được tạo dựng vào năm Bính Dần (1626), (đời ”Hy-Tông Hiếu -Văn Hoàng-Đế”) Chúa Nguyễn Phúc-Nguyên. Tại đây khi đã ổn định sinh hoạt, Thập Lão đã trùng tu ngôi chùa cũ, tân trang, nới rộng ra làm nơi kinh doanh chính với khách hàng các nước: Nhật-bản, Trung-Hoa, Y-Pha-Nho, Bồ-Đào-Nha... đặt danh xưng “Cẩm - Hải Nhị Cung”.
Nhờ vào chính sách khôn ngoan, mềm dẻo và sáng suốt của các Chúa Nguyễn, nền kinh tế miền Trung lúc ấy phát triển rất mạnh, khiến cho việc kinh doanh của Thập Lão càng ngày càng phát đạt. Mặt khác cũng do Thập Lão nằm trong thành phần có học thức, giàu có, có tài sản mang theo khi di tản và nhất là họ thấm nhuần đạo lý nho gia , nên cung cách giao tế của những người trong nhóm Thập Lão được cư dân địa phương kính trọng, khiến tình cảm của cư dân địa phương đối với Thập Lão ngày càng mặn nồng, mật thiết. Cụ thể là Thập Lão được sự giúp đỡ nhiệt tình của các phú hộ, cũng như của chính quyền Hội-An sau này.
Cuối cùng Thập Lão quyết định di chuyển xuống định cư tại Hội-An.
Chẳng bao lâu sau đó, cộng đồng Tam Gia, Thập Lão xem Hội-An như quê hương chính của họ. Đến thế hệ thứ hai, một gia đình họ Trương được nhập Việt tịch và ngài Trương Thừa Kim của nhóm Thập Lão (nhánh họ Trương Đôn Hậu) là người Việt gốc Hoa đầu tiên được cử làm trưởng làng MINH-HƯƠNG, một làng tân lập. Nhờ Hội-An gần Cửa Đại rất thuận lợi cho việc giao thương với các tàu buôn nước ngoài Tại đây, các loại ghe bầu có thể qua Cửa Đại để đưa hàng đến tận Hội-An một cách dễ dàng nhanh chóng. Hội-An còn là nơi tiếp nhận các mặt hàng từ Tiên-Sa, Đà-Nẵng (lúc đó thành phố và hải cảng Đà-Nẵng chưa phát triển) do người Bồ Đào Nha và Y-Pha-Nho chuyển vào bằng lừa. Ngay khi đặt chân đến cư trú tại Hội-An, tổ tiên Minh-Hương được sự giúp đỡ tích cực của Hòa Thượng Huệ Hường (Ngài họ Lương) và Ni Cô Diệu Thành (tức Bà Ngô Thị Lành) Nguyên bà Lành là người Việt-Nam lấy chồng người gốc Hoa mang họ Trịnh. Chồng bà giàu có vào bậc nhất ở Hội-An thời bấy giờ. Sau khi chồng chết, bà phát nguyện đi tu. Chính bà đã hiến tặng Thập Lão toàn bộ đất đai rộng lớn do gia đình chồng bà sở hữu bằng nửa diện tích của cả địa điểm Hội-An, để lập nên làng Minh-Hương, tái tạo Cẩm Hải Nhị Cung (tức Chùa Bà Mu), dựng nhà Tiền Hiền, xây Chùa Ông ( Trừng Hán Cung), chùa Phật (phía sau chùa Ông), chùa Văn Chỉ....” Gia phả ghi cả cuốn dày, Nguyên đọc đến đoạn này rồi xếp sách lại, suy nghĩ..
 
**
Thanh ra đón Nguyên tại phi cảng. Lâu lắm hai anh em mới có dịp gặp nhau. Sau năm 1975, hai anh em mỗi người ở mỗi nơi, thỉnh thoảng gọi điện thoại thăm nhau hoặc gửi thư từ nếu có việc quan trọng cần thông báo. Thanh vừa lái xe , vừa vào ngay câu chuyện hai anh em đang quan tâm. “Anh Hai, ngày mai chúng ta mời người “bà con” mà em đã nói với anh đi ăn nhà hàng. Chúng ta sẽ bàn nhau ngày đi về Chiếu-An. Người bà con này sẽ hướng dẫn chúng ta đến “tự đường tộc”, cũng như thông báo việc chúng ta về thăm lại quê hương ...”
“ Được, anh đồng ý sự sắp xếp chuyến đi và nghe theo ý kiến của chú...”
“Em sẽ xin nghỉ hai tuần lễ làm người thông dịch sang tiếng Hoa kiêm chức phó nhòm cho anh, anh hai chịu chứ?”
Khi hai anh em được “người bà con” đưa về đến Chiếu-An, từ xa đã nhìn thấy Vị trưởng tộc cùng hai mươi người ra đón tận đầu làng. Nguyên và Thanh rất cảm động, bước xuống xe chào hỏi mọi người. Sau đó cùng đi bách bộ về đến Tự-Đường.
Tự đường nằm trên một khoảnh đất rộng nơi một ngọn đồi thấp, chung quanh có tường cao bao bọc.
Nguyên nhìn cảnh vật, cây cối trước mắt, nghĩ đến cảnh trong một phim Hongkong mà chàng đã xem hơn là nghĩ đến sự liên hệ của một người con cháu từ nơi xa xôi về lại cố hương thân thương.
Nguyên định quay sang Thanh để hỏi Thanh đang nghĩ gì, nhưng chàng im lặng khi thấy Thanh đang trầm tư.
Người trưởng tộc, sau khi tự giới thiệu mình, ông quay sang giới thiệu hai anh em Nguyên.
Nguyên và Thanh bày lễ vật dâng lên bàn thờ Tổ Tiên, rồi lễ bái. Thanh thông dịch những câu chào mừng và đối thoại giữa vị trưởng tộc, bà con và hai anh em. Kế đó, vị trưởng tộc trịnh trọng cầm lấy cuốn Gia Phả đưa Thanh, nhờ đọc to cho mọi người cùng nghe, rồi dịch lại tiếng Việt cho Nguyên hiểu.
Theo gia phả ghi năm 1700 có vài gia đình trong tộc cùng với một số gia đình cùng huyện đã dùng thuyền đi về biển phía nam, nhưng không biết sống chết thế nào hoặc định cư nơi đâu vì không liên lạc được, nên gia phả nhánh này chỉ ghi như vậy thôi. Không ngờ mấy trăm năm sau, lại có dịp bà con trùng phùng. Vị trưởng tộc rất vui mừng tin vui hy hữu này.
Nguyên đứng dậy lễ phép thưa:
“Thưa Tộc trưởng và bà con trong tộc. Chúng tôi có mang theo đây bản sao Gia Phả tộc ta bên Việt-Nam do tổ tiên chúng tôi ghi chép bằng Hán-tự và truyền lại cho chúng tôi, tính đến nay trải qua mười đời. Chúng tôi kính tặng Tộc-trưởng để lưu lại... tự-đường.”
Tộc trưởng ngạc nhiên và vui mừng đón nhận món quà tinh thần quý giá đó, vì không ngờ con cháu lưu lạc phương xa vẫn viết gia phả.
Tộc trưởng lại nhờ Thanh đọc to cuốn “tiểu gia-phả” này để tộc nhân cùng nghe.
 
***
Tục lệ địa phương từ bao đời nay, dân Phúc-Kiến ngày ngày ăn cháo hai bữa, chỉ có một bữa cơm chính.
Đặc biệt lần này, có con cháu từ “ ngoại-quốc” về thăm, nên tộc trưởng cho phép tạm đổi lại một cháo, hai cơm!.
Những ngày ở Chiếu-An, hai anh em đi viếng mộ tổ tiên, đi xem danh lam, thắng cảnh và quan sát lối sống và phong tục điạ-phương. Tuy cùng một huyết thống nhưng Nguyên vẫn thấy có chút gì cách biệt:”họ là người Hoa, còn mình là người Việt!”. Nguyên định quay sang hỏi cảm tưởng của Thanh. “Nhưng thôi!”, Nguyên thở dài... khi nhìn hoàng hôn chậm chậm bao phủ nền trời cố hương xa vời!.
***
Chí hướng và mộng ước của người Minh Hương khi mới đặt chân lên mảnh đất Việt Nam là PHẢN THANH, PHỤC MINH. Lâu dần đồng hóa thành người Việt, con cháu không nói được tiếng Trung Hoa quên mất cội nguồn! Sau năm 1975, những người Minh Hương này lại một lần di tản nữa với nguyện ước DIỆT CỘNG, PHỤC QUỐC. Đợt di tản lần này qua hàng trăm quốc gia trên thế giới . Họ phải học, nói nhiều ngôn ngữ , sống theo nếp sống khác nhau liệu vài thế hệ nữa con cháu họ có còn nói tiếng cha ông và còn biết nguồn cội không?
 Đó là ”truyện- người- Việt- gốc- Hoa- cũ”, còn gọi là người MINH-HƯƠNG.
Còn chúng ta là những người VIỆT-NAM chính gốc nay được gọi “người Mỹ gốc Việt, người Pháp gốc Việt, người Anh gốc Việt, người Úc gốc Việt, người...( nhiều nước lắm!) gốc Việt” nghĩ sao?
Có một lần tôi được ngồi nghe ba bà bạn nói chuyện với nhau. Tôi nghĩ rằng
các bà tuy dùng tiếng mẹ đẻ, nhưng chẳng ai hiểu hết câu nói của các bà trọn vẹn.
Bà định cư tại Đức, cứ nói vài từ tiếng Việt lai chen vào vài từ tiếng Nhật-Nhĩ-Man.
Bà ở Pháp, có lẽ tưởng mình là dân Parisienne “Đầm” chính cống, nên trong câu nói dùng tiếng Phá-Lang-Sa nhiều hơn tiếng Mít.. Còn bà” chủ nhà” thì luôn miệng “surprise”, “on sale”, “wonderful”, “day-off”, .. Khổ thay, bà định cư tại Đức, bà ở Pháp không sành t iếng Anh, bà ở Mỹ không biết tiếng Đức, tiếng Pháp.
Vì thế, dù cố gắng lắm, ba bà chỉ “đoán” các bà kia nói gì! May mà các ngôn ngữ trên cũng thông dụng và tôi có học qua, nên tôi cũng hiểu được. Chứ gặp các bà xổ tiếng Congo, Bắc Âu, tiếng Mỹ-La Tinh hoặc một thổ ngữ nào trên thế giới này, thì  loại tiếng Việt giả cầy đó sẽ làm “dien cai dau”, dù mấy ông có hành nghề “godautre” cũng chào thua!
Cầu xin Quốc Tổ HÙNG-VƯƠNG gia hộ cho con cháu chúng ta không bao giờ quên TIẾNG NÓI VIỆT-NAM và nói đúng tiếng Việt , không xen vào ngoại ngữ nào, để luôn luôn nhớ mãi cội nguồn dân tộc.
 
PHƯƠNG-DUY
( 2006)
 
__._,_.___

Posted by: "Dung Dinh" <dungdinh3575@sbcglobal.net>
Reply via web post Reply to sender Reply to group Start a New Topic Messages in this topic (1)
************************
DIỄN ĐÀN PHỤNG SỰ XÃ HỘI
************************
* Gia nhập diễn đàn: phungsuxahoi-subscribe@yahoogroups.com
* Rút tên ra khỏi DĐ: phungsuxahoi-unsubscribe@yahoogroups.com
* Post bài lên diễn đàn: PhungSuXaHoi@yahoogroups.com
* Liên lạc với moderator: phungsuxahoi@yahoo.com

.
stime=1415959219
fpc
__,_._,___

Anh Thắng thân
 
Đây là một nhóm nhỏ Minh Hương ở Hội An , còn đại bộ phận họ đến có cả chiến thuyền vào cửa Hiền , cửa Đại theo Dương Ngạn Địch về Mỷ Tho (Mesa cuả Chân Lạp) và Trần Thượng Xuân về Biên Hoà ( Nông Nại, Biên Trấn ) lập nhiều vùng Minh Hương, Thanh Hà ở Sài Gòn Gia Đinh ( Phiên Trấn ) đất củ cuả Chân Lạp, các chuá Nguyễn Phúc Nguyên, Nguyễn Phúc Tần đem vào khai thác đất Chân Lạp, sau này lại có Mặc Cửu lập ra Hà Tiên và chiụ thần phục chuá Nguyễn.
 
Tôi nghĩ đây cũng là một tài liệu qúy về người Minh Hương , Huế cũng có làng Minh Hương. Có nhiều người là Đại thần triều Nguyễn (Phan Thanh Giản, Trần Tiển Thành, Mạc Thiên Tứ .vv.)
 
Thân chuyển .
 
ĐXD
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn