TIẾNG CỰA MÌNH CỦA TRANG GIẤY

26 Tháng Năm 20163:11 CH(Xem: 3695)

18. TIẾNG CỰA MÌNH CỦA TRANG GIẤY
images (1)

 

Bây giờ hoàn cảnh đổi khác. Cục diện thế giới biến chuyển sâu xa. Các đại cường thay đổi chiến lược, các chế độ lỗi thời loay hoay tìm cách tự giải thể, tự... sụp đổ cách êm ái... Hoàn cảnh mới lăm lăm những món vũ khí khốc liệt, những sách lược cực đoan. Kẻ cầm bút trông lại cây bút, thấy nó ngo ngoe mà ngán ngẩm: Hoàn cảnh nó loại bỏ mình?

Viết chơi thì đây không phải lúc viết chơi; viết để dùng thì cái viết của mình lại e không xứng để dùng. Khoản thời gian còn lại trong đời ít dần, rồi rất ít. Thời khoản rất ít còn lại không dùng được vào việc gì, cái ít lẽ ra là thiếu thốn lại hoá thừa thãi.

Một câu thơ của ông Trần Vấn Lệ ám ảnh tôi. Ông Trần than thở: “Mỗi ngày là một ngày xưa”.

Ngày xưa không còn nữa: đáng quí. Tất cả thời xưa, cũng có thể đáng quí luôn. Nhưng khi cái xưa không chịu ở yên tại vị trí, nó cứ lướt thướt kéo về ám ảnh mình, thì khốn đốn thôi. Mỗi một ngày qua, thời gian chôn nó trân trọng, có thổn thức, có tiếc thương, đủ lễ nghi. Lẽ ra nó nằm yên dưới mồ yên mả đẹp. Xem đấy: ngày qua của trâu, bò, ruồi, muỗi... là ngày qua hẳn. Tốt thôi. Còn lũ ngày xưa của con người — đặc biệt là của đám người cầm bút — chúng nó quá quắt.

Trong cuốn Đôi bạn của Nhất Linh, anh chàng Dũng có lần đưa mẹ con cô Loan đi Hà Nội. Đêm trăng, bà cụ yên giấc, Dũng cùng Loan đi dạo phố một lát. Trên đường phố, gió phất tà áo của Loan, chạm vào tay Dũng. Chạm nhẹ, chút xíu thôi. Cả hai xúc động. Trong Bướm trắng, Trương lẻn vô phòng hít trộm chiếc áo lót của Thu vừa mới cổi vất ra giường. TrongXóm Cầu Mới, cô Mùi lén nằm lên giường của Siêu, đắp chăn của Siêu, hít mùi gối của Siêu. Trong cuốnLoạn của Chu Tử, bé Liễu từng được cậu Xương cởi quần áo, công kênh trên vai, đem ra ao, cùng tắm với lũ em nhỏ; hơn mười năm sau, chính Liễu ấy lớn lên, nõn nà, sang trọng, làm chủ nhà thổ và tình cờ một hôm đấm bóp cho Xương, nhận ra người “cậu” tàn tạ, Liễu khóc nấc lên, đè đầu “cậu” xuống hôn lấy hôn để. Edgar Poe một đêm để con quạ giữa khuya đến kêu lên mấy tiếng tai quái rợn người. Gustave Flaubert gặp bà Schlésinger một lần, lằng nhằng với bà trong truyện cả 33 năm v.v...

Sống ở đời ai chẳng gặp chuyện: chuyện hay chuyện dở, chuyện buồn chuyện vui. Thời gian trôi qua, rồi chuyện xảy ra ngoài đời tan biến dần, mất dần. Có thế con người ta mới sống được, cuộc đời mới trôi xuôi suôn sẻ. Bé Mùi nhi đồng thành cô Mùi thiếu nữ, có lúc nóng người vì hoả bốc bất ngờ; rồi cô lấy chồng; rồi con cái đùm đề, cháu chắt đông đảo lít nhít đầy nhà... Mùi hoá kiếp thành bà, già nua, bận bịu, lẩm cẩm... Bấy giờ đố bà còn nhớ được mùi chiếc gối của Siêu nó ra làm sao.

Thế nhưng ông Nhất Linh thì không được thế. Sách ông còn đấy. Trong đó có tà áo đêm trăng, có chiếc gối ở đầu giường ai... Lỡ lọt vào sách ông, chúng nó không tự biến mất được. Chúng ám ông suốt đời. Cũng như con quạ bí hiểm ám Edgar Poe. Như bà Schlésinger ám Gustave Flaubert...

Chúng nó cũng có quấy ông nọ bà kia, cô này cậu khác trong giới độc giả, nhưng thỉnh thoảng thôi, nhẹ thôi. Còn ám ảnh, quấy động tác giả thì quấy kỹ, tới chết. Chao ôi! Đêm nay một con quạ đen, đêm mai cả bầy cáo trắng, rồi vài sợi tóc mai lơ phơ, một màu áo nhàn nhạt v.v... chúng từ một cuốn sách, một câu thơ trót viết ra đã lâu, lén lút mò về tìm tác giả, ngó đăm đăm. Ông tác giả nào, bà tác giả nào chịu thấu hả trời!

Cặp mắt, tiếng kêu, làn da, hơi thở v.v... của những người nọ vật kia có liên hệ xa gần thế nào với ông bà tác giả? Ông bà tác giả có liên hệ gì, nợ nần gì với chúng? Không rõ đâu. Mơ hồ lắm. Rắc rối lắm. Xa xôi lắm. Cử chỉ nọ, nhân vật kia, có thể là cái tác giả yêu thích nhất, có thể là cái ghét sợ nhất; có thể là cái tác giả chưa từng biết, chỉ nghe qua rồi mơ ước, có thể là thực tại xấu xa trây lì ám ảnh mãi không cách nào xua đuổi nổi, ngấy muốn chết!

Tôi lại nghĩ tới ông Trần Vấn Lệ:

Đà Lạt ơi! Đà Lạt ơi!

Những cây thông nói với trời điều chi?

Hồ Xuân Hương, liễu thầm thì

Phải chăng thông đã nói gì mà quên?

(‘Tôi về thăm chỗ tôi đi’)

Liễu thầm thì bảo vậy có tin được không? Thông nói rồi thông quên tuốt! Cả thông, cả liễu, cả hồ, cả Đà Lạt, cả Trời đều sống thảnh thơi, an lành, nhẹ nhõm. Ngay người đời nói chung, thỉnh thoảng có gặp điều gì — hoặc vui hoặc buồn — đem ra tỉ tê với bạn bè; rồi trải qua năm tháng biền biệt cũng có thể quên dần, có khi quên luôn. Chỉ có các tác giả là không thoát được quá khứ. Nó nằm đó, đủ bầy đủ lũ, im lặng mà chòng chọc. Nó ám ảnh đấng sinh thành không buông tha.

Buổi trưa rạo rực xa xưa, một đêm trằn trọc mấy chục năm trước, một làn da, một bàn tay, gót chân, tiếng guốc, tiếng khua lén lút, một sáng nọ chiều kia trong vô số sáng chiều trong đời mình... Những cái như thế tốt cả, quí cả. Hít áo lót: tốt. Vùi đầu vào ngực “người ta”: tốt. Những cái như thế làm ra cuộc sống, ra cái hấp dẫn của cuộc sống. Nhưng xong việc, chúng nó nên mờ đi, biến đi. Những cái quí còn nên tự xoá dần, huống hồ những cái kỳ cục! Đã thế, các tác giả lại còn bị thúc đẩy: Viết cho sâu vào, sâu tuốt vào tiềm thức. Ối!

Vừa rồi nêu ra là những tên tuổi lớn. Thực ra, người viết lớn người viết nhỏ, đại văn hào tiểu văn nô, đã viết đều điêu đứng, càng viết càng điêu đứng. Thời gian, ngày tháng của kẻ khác đến rồi đi, lặng lẽ. Ở người viết, chúng nó thành oan hồn uổng tử, kêu khóc tỉ tê...

Mọi cuộc đời đều kết thúc. Trước tan biến là nghỉ ngơi. Hưu là nghỉ (cũng có nghĩa là vui). Bởi vậy hưu thì hưu dưỡng, hưu nhàn, hưu hạ. Ở người viết là cáihưu hoảng, hưu hốt. Đó là những tiếng đã có từ khuya, đặt ra để tiện dùng, nằm sẵn trong các tự điển.

Người viết nghỉ ngơi trong hổn hển. Nằm thở phì phà phì phào bên cạnh một ngổn ngang, khúc mắc, u ám... Đêm khuya thao thức, chợt nghe sột soạt: tiếng cựa mình của mấy trang giấy cũ. Bèn thảng thốt. Giật nẩy người.

— Vậy bỏ quách. Ai bảo ham. Viết lách làm gì?

— Thì đấy. Nào mình có viết gì nữa đâu. Đây là nói về nghiệp “cũ” thôi.

Tháng 3–2006

(In trong cuốn Cuối Cùng của Võ Phiến, Thế Kỷ 21 xuất bản tại California, USA, 2010)

_________________________

[1]Phần trước, xin xem bài “Thẫn thờ” cùng tác giả, trên tạp chí Thế kỷ 21 số ... tháng... năm 2006.

[2]Tức bài “Từng lớp cách nhau”, viết tháng 4-1966, đăng ở tạp chí Bách Khoa ở Sài Gòn, in lại trong cuốnTạp luận, năm 1987.

[3]Bài “Dù có bao giờ”, viết tháng 7-1968, đăng ởBách Khoa, in lại trong cuốn Tạp luận, năm 1987.

[4]Bài “Bắt trẻ đồng xanh”, viết tháng 10-1968, đăng ởBách Khoa, in lại trong cuốn Tạp luận, năm 1987.

[5]Bài “Tiếng cú”, viết tháng 11-1968, đăng ở Bách Khoa, in lại trong Tạp luận, năm 1987.

Nguồn: internet/chuyển bởi GS Trần Vấn Lệ

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn