Kính chuyển đến thày cô và các anh chị moọt loạt 6 bài viết về Ký Ức Mưa của Như Luân - cựu nữ sinh Bùi thị Xuân 66-73
-------
Ký Ức Mưa
( 1 )
Có một cơn mưa chiều hạnh phúc, Bố không phải lặn lội trong mưa mà Bố nghỉ ở nhà, lúc đó anh tôi chưa đi học về nên chỉ có mình tôi với Bố Mẹ. Cả ba chúng tôi nằm chơi bên nhau. Bố Mẹ chuyện trò rất vui trong khi tôi nằm giữa hết ôm Bố lại ôm Mẹ. Rồi như những đứa trẻ hay làm, tôi úp mặt xuống gối nói chuyện một mình. Mẹ nghe tiếng thì thào của tôi, chọc cho tôi ngẩng mặt lên. Chúng tôi cười vui trong tiếng mưa rơi bên ngoài nhè nhẹ. Thế rồi Mẹ bàn đến những món ăn hấp dẫn trong trời mưa, cuối cùng khi mưa tạnh thì Bố lãnh nhiệm vụ đạp xe ra chợ, và tối đó cả nhà có một món ăn đặc biệt, nóng ấm...
Một cơn mưa chiều khác, cùng với tiếng Bố dựng xe trước cửa là tiếng reo vui của Mẹ. Tôi vừa ru em ngủ xong vội vã chạy ra,nhìn thấy trên tay Mẹ một chiếc túi nilon trong, ướt sũng. Mẹ đưa về phía tôi: "Ư...mẹ có con búp bê!" Tôi sung sướng đón lấy sau khi Mẹ mở giùm, một con búp bê xinh xắn màu hồng thơm mùi nhựa mới.Một món quà quá bất ngờ mà Mẹ bảo là "để thưởng vì con ru em giỏi". Vừa có em lại vừa có búp bê, còn sung sướng nào hơn! Hồi giờ toàn chơi "em bé" bằng cái gối, cái ghế nhỏ,-cái "đòn ngồi", theo tiếng thường dùng- hay cái ống thuốc đau tim của Mẹ ( mà cũng được mặc quần áo đàng hoàng!), nay mới có búp bê thứ thiệt, dù chỉ là thứ tầm thường của con nhà nghèo. Sau đó Mẹ tôi còn sang hàng xóm xin cây gai về ngâm nước, lấy sợi thắt cho tôi và cô bạn con nhà hàng xóm mỗi đứa một chiếc võng để búp bê nằm.Bố đóng cho tôi hai cái đinh vào hai chân bàn học,-chiếc bàn có hai ngăn, một cho anh tôi và một cho tôi- để tôi treo võng. Thế là hết ru em tôi lại ru búp bê, nấu nướng trong bộ đồ hàng cũng bằng nhựa cho búp bê ăn (có khi "nấu" xong còn mang mời cả Bố và Bố cũng nhiệt tình "ăn uống" với tôi, còn khen "Ngon quá!" làm tôi cứ muốn mời Bố mãi...)
( 2 )
Ngày đó chắc tôi còn lùn hơn bây giờ nhiều, nên giờ Toán nào Thầy Thế cũng gọi:
- Vân, lên xóa bảng cho thầy đi con!
Và Thầy hay nói với cả lớp:
-Để nó với lên cho nó mau cao.
Chẳng những thế Thầy lại hay xuống tận bàn 5 là nơi con bé đó ngồi mà nhắc " Con phải viết nắn nót cho chữ đẹp hơn nữa." Rồi gần cuối năm Thầy lại xem và bảo:
- Thầy nhắc hoài nên con Vân nó viết chữ đẹp rồi đó!
Trong những đêm mưa như thế này, tôi nhớ tiếng Bố ngâm những bài thơ cổ, hay tiếng Mẹ đọc thơ Nguyễn Bính, đọc Truyên Kiều, trong căn nhà nhỏ có những bức tranh phong cảnh dán trên vách giấy, khi tôi còn bé. Thời anh tôi còn đi học hai anh em thường cùng nhau thức để...làm thơ! Ngồi lặng thinh ở hai góc bàn đối diện, mỗi đứa đi theo dòng cảm xúc của mình để rồi đến một lúc nào đó,thường là anh tôi trước, sẽ đưa "tác phẩm" của mình cho đứa kia xem. Không gian văn chương mà Bố Mẹ dệt nên quanh cuộc sống chúng tôi đã làm nảy sinh nhiều cảm xúc tuyệt vời cho những gì chúng tôi viết lại.
Một người bạn đã "comment" rằng sao tôi không đi theo nghiệp văn khi đọc một tùy bút của tôi. Thật ra tôi không biết sao anh tôi không theo đuổi nghiệp văn mới đúng. Từ khi tôi nhỏ xíu anh đã lấy giấy đẹp đóng từng tập mỏng viết cho tôi đọc những chuyện phiêu lưu. Nét chữ rắn rỏi đều và đẹp của anh trên những trang giấy nhỏ hình vuông ấy vẫn còn lưu lại trong trí nhớ của tôi, và lúc ấy đã dẫn dắt tôi vào một thế giới đầy tưởng tượng. Lên Trung Học thì anh quay sang viết truyện kiếm hiệp. Cũng những tình tiết lôi cuốn đi từ chương này sang chương khác thật ly kỳ, đến nỗi Bố sợ anh lơ là việc học đã cho anh một trận đòn để anh trở về thực tại. Hình như từ đó anh tôi thôi viết truyện dài mà chỉ còn là truyện ngắn, đoản văn và đặc biệt là thơ. Ít ai trong thế hệ chúng tôi ngày đó không làm thơ, và trong thế giới học trò anh được biết đến với những bài thơ tình rất đẹp mà về sau, ở những nơi tôi sống, tôi còn tình cờ nghe nhiều người nhắc đến anh với danh xưng "thi sĩ", và thấy họ chép thơ anh.
Ông anh giàu tưởng tượng ấy là một pho truyện kể ly kỳ, lôi cuốn mấy đứa em trong những buổi tối ấu thơ. Từ truyện người thợ săn sống ở bìa rừng với hai con chim nhỏ, cho đến một chuyến phiêu du lên Mặt Trăng mà nhân vật của anh đã tình cờ bắt đầu, chỉ vì mở phải cánh cửa cái ngăn treo áo của chiếc tủ Mẹ tôi vừa mua lại của người hàng xóm! Pho truyện của anh không bao giờ kết thúc, để cho mấy đứa em hôm nào cũng hào hứng lắng nghe . Chỉ cần những đêm Bố đi làm xa, năm mẹ con cùng ngủ trên chiếc giường lớn, -và anh hoặc tôi phải nằm ngang trên đầu giường cho rộng rãi- thì chiếc gối của Bố được dựng lên đã đủ tạo nên một không gian cho một câu chuyện xảy ra giữa những người láng giềng rồi. Hồi đó các em tôi bé xíu còn phải bế, và những đêm vắng Bố cứ êm đềm bắt đầu từ một trò chơi do anh tôi kể chuyện và chúng tôi là nhân vật. Anh lại còn vẽ thật nhiều kiểu nhà mà anh gieo vào ước mơ của tôi rằng, mình sẽ làm để thay thế cho mái nhà ọp ẹp này. Tiếc rằng tuy nhà đã được làm lại khi tôi học lớp Năm, nhưng chẳng có mẫu nào trong những kiểu đó được anh làm khi còn Bố Mẹ, và may thay con trai anh đã thành kiến trúc sư để bắt đầu sự nghiệp bằng việc xây lại ngôi nhà cho bố mẹ nó. Nhiều hình ảnh thân yêu xa xưa không còn lưu dấu một chút xíu nào trên vùng đất ấy nữa. Tôi đã rời bỏ ngôi nhà yêu dấu của Bố Mẹ để đến một nơi ở khác, mang theo toàn vẹn những kỷ niệm và ký ức một thời thơ ấu, một thời lớn lên trong bình an, trong gian khó, trong mộng mị và trong cả những bất ổn của một thời chinh chiến mà khi đó, ông anh hiền hòa và lãng mạn của tôi phải từ bỏ sách vở và khoác lên mình màu áo quân nhân... Rồi cuộc chiến tàn, rồi tất cả những mộng mơ xưa bị vùi chôn theo sự đổi thay của cuộc đời...
....................
( 3 )
Rồi hình ảnh một sân trường,rồi hình ảnh những con đường nhỏ trong lòng Viện lại hiện đến, rõ ràng và dịu dàng, kế tiếp nhau liên tục kèm theo những ý nghĩ thì thầm về "một mối tình không có thực", những lời lẽ có thể là của một chàng trai dành cho những bước chân đi qua trong mưa của một người con gái. Cõi ảo ảnh mơ hồ mà lâu lâu tôi dừng lại phút giây để làm thơ cho thực tại đầy phiền muộn của mình.. Cái cõi đã tạo nên một con bé "rất thơ mộng và hạnh phúc" mà nhiều bạn bè bảo rằng thèm khát có được để bình yên giữa cuộc chiến bạo tàn đang diễn biến và cướp đi những người thân yêu của họ lúc bấy giờ.
Tôi nhớ Vinh trong đám tang Anh Long của nó. Vừa trông thấy tôi, nó ôm chặt lấy, hoảng hốt:
- Anh Nhân đâu? Gọi anh về ngay không đi lính nữa. Khủng khiếp lắm Vân ơi! Anh Long mất rồi, tao đi đón anh về, lạnh ngắt...!
Bàn tay nó co rúm bóp chặt tay tôi đến nỗi làm tôi đau.Người Mẹ hiền hậu của Vinh ôm lấy áo quan, hôn miệt mài trong nước mắt và gọi tên con thảm thiết. Sau đám tang Anh Long không lâu, anh tôi làm đám cưới, - "Để anh có vợ, kẻo nhỡ anh chết bất ngờ trong những cuộc hành quân thì Bố Mẹ chưa kịp có con dâu", anh tôi bảo vậy-, Vinh vẫn đến cùng tôi lo mọi việc. Nhỏ bạn kỳ lạ của tôi, nó đã nghỉ học từ khi xong Đệ Tứ để ở nhà giúp Bố Mẹ buôn bán chăm lo cho gia đình, thế mà khi tôi có nguy cơ phải nghỉ học luôn thì nó bảo: "Mày phải đi học Vân ạ. Mày nghỉ học tao buồn lắm".Nó "bắt tôi đi học". Nhờ nó mà tôi tiếp tục con đường lên Đại Học, tiếp tục những buổi tan trường có bước chân ai đó theo sau.
...Ngày đó, chưa yêu dấu gì mà tôi cứ hay để ý trông mong anh lớp trưởng Văn Khoa Việt trên mình một năm, để rồi sau này đã về sống chung, cùng chồng nhắc lại ngày xưa tôi hay bảo, "Cái mãnh lực của "nửa kia" làm em hay chú ý đến anh thế đấy!..."Và, tôi bỗng nhận ra cảm giác mừng vui của mình vì sau bao lúc cỗi cằn trái tim tôi cũng còn những cảm xúc thật êm đềm.
...............
( 4 )
Cảm giác bây giờ của tôi cũng thật an toàn, khi ngồi trong nhà ấm áp và nhìn ra bên ngoài kia cơn mưa đã dịu hơn nhưng cái màn nước mỏng ấy còn giăng mọi lối. Mưa nhuốm ướt những vòm lá, nhuộm thẫm những thân cây trong công viên, còn thảm cỏ bên dưới thì trở nên xanh mướt. Tôi nhớ những đồi cỏ quanh ngôi trường nữ ngày nào. Hôm nay chúng tôi đang nhắc nhớ nhau về Cô Ấu Lăng, người đã ra đi cách nay vừa đúng năm năm. Tự nhiên trong cơn mưa này tôi nhớ thật rõ con đường dẫn về nhà Cô trên đồi cỏ sau trường, nhớ những đám lá thông mục nát viền theo chân cỏ trên lối đi bằng đất nhẵn đưa vào một cánh cổng thân quen mà tôi biết chỉ cần nhấn chuông là được đón ngay vào một không gian êm đềm với vườn hoa phía trước lúc nào cũng rực rỡ nhiều màu...( Tôi nhớ cả cái cảnh mấy em reo lên tên tôi rồi chạy túa ra, những gì trên tay tôi được mỗi đứa cầm lấy một thứ và đứa còn lại thì sẽ...cầm tay tôi cho...có việc làm!)
Sau ngày trình Cao Học, Cô bảo tôi đi dự giờ Cô ở Văn Khoa Việt năm thứ nhất. Hôm đó Cô giảng Trống Mái của Khái Hưng. Tác phẩm này ở Trung Học tôi đã học nhiều trích đoạn và đã đọc rồi,nhưng hôm ấy ngồi nghe Cô, nghe giờ dạy đầu tiên ở Đại Học Văn Khoa của Cô với tư cách một "học trò cưng" (đã cũ),- như Cô từng nói sau này với các con và cháu của tôi,- tôi mới nhận ra được tất cả vẻ đẹp và giá trị tiềm ẩn của tác phẩm.
Cô nắm tay tôi khi bước lên đồi cỏ, sau khi hai cô trò còn tiếp tục trao đổi về tác phẩm trên suốt quãng đường từ giảng đường Thượng Chí đến Đinh Tiên Hoàng:
- Em thấy giảng như vậy có xứng đáng để làm học trò của Vũ Khắc Khoan chưa?
Cô tôi. Người đã "hớp cả linh hồn" chúng tôi trong những bài giảng ngày nào ở trường Bùi mà cũng chỉ khiêm nhường hỏi thế.(Tôi chợt nhớ ngày học Đệ Nhị C và Cô giảng Thu Điếu của Nguyễn Khuyến. Chỉ một bài thất ngôn bát cú, Cô dẫn chúng tôi vào một vùng trời thu lãng đãng. Nụ cười trên môi với khóe răng xinh duyên dáng, ánh mắt sáng trong luôn ẩn chứa niềm vui, và viên phấn trên tay Cô cứ điểm dần từng nét theo từng ý thơ lên bảng. Khi Cô dứt lời, thì còn lại trên nền bảng đen là bức tranh "Thu Điếu", và một giọt nước mắt trên đôi mi đã mở lớn suốt cả giờ học của tôi rụng xuống. Cô giảng bài cuốn hút như thế đấy!)
"Ngày hoa mộng cũ chưa phai nhạt
"Người đã xa như bóng mặt trời"
Hoài Thơ Yên Mơ. Trần Bạch Tuyết mà tôi ái mộ từ khi bước chân vào trường nữ vì Tuyết đỗ thủ khoa, cho đến lớp Đệ Tam cùng đi ban C mới học chung lớp và cho đến lúc Tuyết sắp sang Mỹ học năm cuối Trung Học hai đứa mới "nhận ra nhau". Sau này Tuyết về, chúng tôi vẫn chơi với nhau dù đi khác ban trên Đại Học. Và buổi chiều cuối cùng tôi gặp Tuyết, tay vẫn ôm cuốn "Kim Vân Kiều" để đọc cho đỡ buồn trong khi đứng bán hàng ở góc Hòa Bình, nó dặn, như mọi lần:
- Khi nào ra phố nhớ ghé chơi với Tuyết nữa nghe!
Sáng hôm sau đã nghe tin Tuyết không còn nữa. Hai câu thơ của Bạch Tuyết ám ảnh tôi. Tuyết đã "xa như bóng mặt trời", như cái thời hoa mộng của chúng tôi ngày nào. Mọi thứ cứ xa đi, xa đi như thế.
- Thầy thấy em quen lắm.
Và Thầy gọi Cô. Cô bước ra đầu cầu thang, gọi cả họ tên tôi và ôm tôi vào lòng.
- Em đã tìm Cô suốt mấy mươi năm.
Tối đó Cô giữ mẹ con tôi ở lại dùng bữa. Cô nhắc về tôi và mấy em đều nhớ ra. Tôi nhắc về chồng tôi để Cô nhớ đến cậu sinh viên Đại Học Sư Phạm ngày nào Cô đã hướng dẫn đi thực tập...
- Bây giờ gặp lại cô rồi, mình sẽ không để mất liên lạc nữa.
Cô nói thế. Rồi trong những lần sau Cô nói với tôi về Hoa Tâm, về cái "quỹ thời gian" mà không phải chỉ của Cô, -của cả chúng ta- còn rất ngắn.
Học trò trường Bùi có rất nhiều người thành đạt, làm nên danh phận. Còn tôi, "em chẳng có gì để khoe Cô."
- Sống một cuộc sống như em đã là thành đạt rồi.
Tôi cười. Tôi nghĩ đó là một lời an ủi. Trong một lần gặp gỡ khác có cả chồng và các con tôi, Cô trích lại một lời của Bố tôi và kết luận rằng:
- Bố rất sâu sắc khi nói lên điều đó. Còn cô, cô khâm phục em.
Cô đâu biết rằng ngoài những gì mà Bố Mẹ đã cho tôi để tôi có được con người và nhân cách này, thì cách sống của Cô đã góp một phần không nhỏ để tôi có thể đi qua những gian nguy trong đời sống một cách an nhiên.
- Đời sống, cứ như những quả bóng mà người ta ném về phía cô, và cô cứ bắt lấy, từng quả một.
Trong những lần gặp, những lần Cô gọi điện thoại cho tôi hoặc tôi gọi Cô, Cô hay trao đổi với tôi về cuộc sống, về nhân sinh quan, về cách "đối diện với cuộc đời". Cô nói một cách vui vẻ mà kiên quyết:
- Với cô, không có "thú đau thương". Không có ngồi đấy mà khóc than rên rỉ. Đời làm mình vấp ngã hay gây trở ngại cho mình thì cứ đứng lên mà đi tiếp.
Ánh mắt của Cô, giọng nói của Cô cứ giữ được nét vui khi tiếp xúc với học trò dù Cô chiến đấu với cơn bệnh hàng lúc một.
- Cô sinh ra ở Hà Nội, lớn lên và đi học ở Huế, rồi dạy học ở Dalat, những thành phố tuyệt vời như thế...Cô có một tình yêu và một gia đình hạnh phúc. Dù trải qua bao gian nan nhưng các em đã có được ngày nay...thì cô bệnh là lẽ công bằng của cuộc đời.
Cô nhìn đời sống lạc quan và bình an thế đấy. Cô nói với tôi về căn nhà nghỉ ở Nam Cát Tiên. Mỗi lần sắp lên thì Cô lại gọi "xem em có xuống được không". Tôi chẳng bao giờ đến đó, nhưng Cô hài lòng vì cô hiểu tại sao tôi không bao giờ có thể để anh một mình. Cô hiểu cái "hạnh phúc mong manh mà ngay khi đang có mình cũng không hưởng được trọn vẹn vì lo lắng" của người vợ có chồng mang nhiều bệnh nạn. Rồi thay vì đợi tôi xuống chơi thì từ Nam Cát Tiên Cô đến thăm tôi. Cô đi cùng mấy người em họ và một người bạn ở xa về. Chúng tôi đã trải qua những giờ phút gặp gỡ " rất văn chương" trong một ngày thu đẹp đẽ...
Tôi có được niềm hạnh phúc nghe tiếng Cô ngọt ngào bên kia đầu dây, nhiều lần. Nghe tin Cô mệt nặng, tôi gọi, thì lại được Cô nói chuyện văn chương và quan niệm sống của người xưa, say sưa như khi cô đứng trên bục giảng ngày nào. Tôi nhắc chừng:
- Cô ơi, em có làm Cô mệt vì nói chuyện không?
Tiếng Cô cười:
- Tự nhiên hôm nay nói chuyện văn chương với em cô lại quên hết mệt.
Không có lần nào trò chuyện mà Cô quên nói về chồng con và các anh chị em tôi là những học sinh ở trường Bùi. Nhất là những sẻ chia, những lời khuyên về việc tôi chăm sóc sức khỏe của anh. Những quan tâm sâu sắc như thế làm sao tôi quên được.
Sau lần trò chuyện thân tình về cuộc sống, về cuộc đời,mà tôi nghe giọng Cô yếu hẳn không lâu thì Cô ra đi. Tôi mất đi một người đáng kính và đáng tin cậy để chuyện trò, nhưng cũng như những gì đã qua, tôi vẫn giữ lại được rất nhiều những "tài sản tinh thần" mà Cô trao gửi.
Tôi là một cô giáo may mắn có những học trò nhớ và sống theo những điều tôi chia sẻ trong khi đi dạy. Tôi là đứa học trò may mắn có rất nhiều Thầy Cô mẫu mực còn ảnh hưởng đến cách sống của tôi cho đến bây giờ. Trong cơn mưa chiều nay tôi nhớ nhiều về Cô là một trong những người khả kính ấy, và thấy mình hạnh phúc đã có những năm tháng trẻ thơ và những năm tháng trưởng thành với Cô như một sự đồng cảm diệu kỳ. Cô từng nói với tôi về lòng biết ơn đối với cuộc đời. Bây giờ tôi cũng cảm thấy biết ơn cơn mưa chiều nay đã gợi lại cho tôi nhiều điều như thế.
.................
( 5 )
Sự khó khăn trong tương quan với học trò của Cô khiến chúng tôi cảm thấy giờ Việt Văn thật là khó thở. Một lần có giờ trống trước giờ Cô phải ra sân Thể Dục chơi thì cả lũ bàn nhau lúc chuông vào cứ từ từ từng nhóm nhỏ lên lớp. Đứa nào vào cũng lễ phép:
- Thưa Cô cho em vào lớp.
Cô kiên nhẫn ngồi chờ đến khi thấy khá đông mới hỏi:
- Các em lên hết chưa? Sao hôm nay lên chậm vậy?
Vài đứa nói lý do "chơi ngoài xa nên chuông reo không nghe". Cô dặn, dịu dàng:
- Lần sau nhớ chơi gần gần thôi hí!
Rồi Cô vào bài dạy thản nhiên như chẳng có gì đáng tiếc xảy ra. Hình như Cô biết cái bọn nhóc mười ba tuổi ấy cố tình trêu Cô bằng cách đó. Nhưng từ hôm ấy Cô không còn khắt khe với chúng tôi nữa. Cô tươi cười hơn và những giờ học của Cô cũng hấp dẫn hơn.
Trong sáu tiếng đồng hồ mỗi tuần của môn Việt Văn, Cô chia ra 2 giờ Cổ Văn, 2 giờ Kim Văn và 2 giờ Thuyết Trình, khác hoàn toàn với hai năm trước là hai giờ Luận. Không khí giờ học của Cô trở nên đặc biệt. Càng đặc biệt hơn nữa là Cô cho chúng tôi soạn các bài Giảng Văn tại lớp. Mỗi bài Kim Văn của Cô thường chẳng có trong sách nào chúng tôi đã biết.Cô hay cho học những bài mang tình yêu quê hương Tổ Quốc hay có tính chất văn hóa vùng miền mà tác giả thì chúng tôi ít biết. Thế là phần "thân thế và sự nghiệp của tác giả" nhiều khi phải chờ Cô cung cấp. Còn phần "giải thích từ ngữ" chúng tôi phải cầu cứu những cuốn Tự Điển Việt Nam bỏ túi. Có hôm tôi còn tha theo cuốn Tự Điển Hán Việt của Đào Duy Anh nặng trịch trong cặp. (Chính phần giải thích này giúp chúng tôi hiểu rõ và viết đúng "lãng mạn" chứ không phải "lãng mạng", "xán lạn" chứ không phải "sáng lạng" như nhiều người nhầm tưởng. Đến cả sự khác biệt giữa "chữ Việt Nam" và "từ Hán Việt" thì chúng tôi cũng biết rõ có những trường hợp phát âm hoặc viết giống nhau mà ý nghĩa khác nhau. Chẳng hạn tả một người đàn ông mặt mũi tướng mạo đẹp đẽ thì ta dùng "phương phi", là tiếng Việt, đồng âm với "phương phi" có nghĩa là "cành hoa thơm" của từ Hán đọc theo âm tiếng Việt, - chứ chẳng có từ nào xưa nay được dùng sai như một hôm đọc báo mà chồng tôi bảo mở ngay tự điển ra xem lại để kiểm tra... trí nhớ của mình! - Nói thế rồi tôi nhớ có lần học trò hỏi:
- Sao mấy người lớn tuổi như cô nói giọng miền nào cũng viết đúng chính tả mà sau này dễ viết sai?
Tôi trả lời thế này:
- Thời cô đánh vần quê mùa lắm, đọc không sót một chữ cái nào rồi mới tới dấu, nên phải viết đúng thôi. Còn sau này ghép phụ âm nọ nguyên âm kia với vần này vần khác phức tạp quá, mà rồi "GH" hay "NGH" chỉ đi với " I ", " E" ' " Ê " nhưng có lúc chữ "ghế" lại quên 'h" mà chữ "ngành" thì lại cho đi cùng "ngh" một cách bình thường. Cô chịu!)
...Đến phần "nhận xét và phê bình" thì Cô Đoan chỉ cho mấy câu hỏi vô cùng cô đọng. Đến lúc ấy tôi mới hiểu vì sao năm Đệ Lục khi vào dạy thay Cô Cẩm Trang, Cô Vân Linh đã đặt vấn đề "Có mấy phương pháp giảng văn?" làm cho chúng tôi ngơ ngác, và rồi câu trả lời là " Mỗi người có một phương pháp giảng văn khác nhau để tìm ra cái hay cái đẹp trong tác phẩm!"
Thời tôi làm học trò, Thầy Cô có kiến thức rất bao la, ai dạy môn nào thì am tường về môn đó đến nỗi hầu như trước bất cứ vấn đề gì cũng có thể giải thích tường tận và dẫn chứng phong phú với nhiều khía cạnh. Bởi thế phải nói là học trò luôn "ngưỡng vọng" đối với Thầy Cô. Trường tôi thường có thêm cô giáo người Anh hoặc Mỹ dạy tiếng Anh và cô giáo người Pháp dạy tiếng Pháp. Các Cô này dạy những năm đầu, song song với các Thầy Cô dạy ngoại ngữ người Việt của các lớp đó. Tôi rất thích mỗi đầu giờ nhìn các Thầy Cô từ Phòng Giáo Sư đi ra để về các lớp, họ "đẹp" một cách lạ lùng trên những khuôn mặt sáng ngời tri thức. Và thích nhất là nhận ra, các giáo sư không dạy ngoại ngữ nhưng cứ nói chuyện với các cô người ngoại quốc ấy thật tự nhiên, và hơn thế nữa là hôm nay nói chuyện với cô người Mỹ thì mai lại thấy nói với cô người Pháp. Ái mộ quá. Nhưng nghĩ lại thì đó là chuyện tất nhiên, vì chúng tôi sau bốn năm học "sinh ngữ 1" tự chọn thì lên Đệ Tam lại học thêm "sinh ngữ 2" rồi. Một giáo sư Pháp Văn ở Đại Học sau giờ dạy đã hỏi tôi:
- Hồi trước em học trường Pháp à? Tôi hỏi thế vì em có " một cái prononciation rất Pháp".
Tôi nói xuất thân của mình. Cô kết luận:
- Vậy thì không có gì lạ. Sinh viên mà từ Bùi Thị Xuân lên tôi thấy ai cũng nói rất hay.
( Hãnh diện ngầm về ngôi trường vôi đỏ của mình nhé! )
Hấp dẫn nhất là phần " chất vấn và giải đáp thắc mắc ". Lúc này không những thuyết trình viên hoặc thuyết trình đoàn và nhóm phụ trách đề tài phải làm việc mà cả lớp đã tham gia một cách sôi nổi. Chúng tôi tranh luận nhau, dựa trên những kiến thức đã được tham khảo của mình nhưng cũng phải " giữ gìn lời ăn tiếng nói " để mình và nhóm của mình không vấp phạm. Cô từ đầu giờ đã xuống ngồi ở cuối lớp, để nhường bàn và bục giảng cho nhóm thuyết trình và quan sát bao quát cả lớp. Khi nào vấn đề đặt ra không có ai giải quyết được Cô mới lên tiếng để làm cho sáng tỏ.
Một lần, theo chủ đề "Phong Tục Tập Quán", có nhóm chọn đề tài " Những Phong Tục Trong Dịp Tết Của Dân Tộc Ta Qua Các Thời Đại". Vấn đề lớn và hẳn là bài có trích những tư liệu từ đâu đó nên có câu "Nguyên kỳ thủy đặt ra phong tục này là vì....".Ba từ "Nguyên kỳ thủy" được đem ra chất vấn xem đó là..."ai?" Rõ ràng theo vị trí trong câu thì đây hẳn là "chủ từ" của động từ "đặt ra" rồi, nên nhóm thuyết trình trả lời ngay rằng đó là..."Cái ông đã đặt ra phong tục ấy". Cả lớp không ai chú ý đến nghĩa của chính ba từ đó, lúc Cô giải thích lại là "do từ lúc bắt đầu của nó" thì cả lớp cười như vỡ chợ. Cuối năm Đệ Tứ, viết lưu bút cho tôi Song Mai còn nhắc :" Nhớ đến những giờ thuyết trình là phải nhớ đến "Ông Nguyên Kỳ Thủy" của tụi mình", làm cho lần nào đọc lại tôi cũng cười một mình đến chảy nước mắt.
Một ngày gần Tết, để tránh khỏi phải ngồi soạn Giảng Văn, chúng tôi xin Cô cho làm Luận. Cô ra đề :"Hãy thay lời một đứa bé mồ côi nói lên tâm trạng của mình khi nhìn thấy cảnh mọi người rộn ràng đón Tết". Thật là một đề tài ý nghĩa, nhưng không phải mỗi đứa viết một bài, mà mỗi bàn. Quả là một thách thức! Thế nhưng cũng như việc soạn bài thuyết trình, Cô đã tạo cho chúng tôi thêm cơ hội để làm việc trong một nhóm. Tất nhiên thế nào cũng có tranh cãi giận hờn ( vì đều là con gái! ) nhưng cuối cùng sẽ nổi lên một đứa đứng đầu để điều khiển cả cái nhóm bất đồng ấy và đưa ra ý kiến chung. Tôi vừa được làm chemise bài thi Việt Văn nên các bạn cho viết lại những điều cả bàn vừa góp ý kiến. Bài đó bàn tôi được điểm cao nhất cùng với một bàn khác nên các bạn rất hài lòng. Hiện giờ tôi vẫn còn giữ nguyên cả xấp bài của các bàn khác vì Cô đã ưu ái dành cho tôi hân hạnh đó!
...................
Ký Ức Mưa
( 6 )
Dalat ngày xưa, thành phố nơi tôi sinh ra và lớn lên khi ấy hiền hòa và lặng lẽ lắm. Chỉ có một khu vực được tôi gọi là " trên phố "có những cửa hàng đẹp đẽ và khu chợ là đông vui thôi. Thời Bố thuê xe lam để chạy ( diễn ra rất ngắn ) tôi hay theo Bố nên được đi qua nhiều con đường nhỏ vắng lặng, mới biết được vẻ u trầm của những rặng thông xen với những ngôi nhà xinh xắn, những con dốc dài quanh co. Một trong những lần đó, Bố giới thiệu Mộng Hằng với tôi. Hai đứa biết mặt nhau ở trường nhưng không biết " gốc gác " của nhau bấy giờ nhìn nhau cười. Bố vừa ghé ăn trưa nơi tiệm của Bố Mẹ Hằng, tiện thể đưa nó đến trường và gặp ngay tôi mới lên tới Hòa Bình. Bố Mẹ tôi có những tình bạn thật nhẹ nhàng mà bền chặt. Từ lúc mới có trí khôn tôi đã nghe Bố Mẹ nhắc đến " Bác Tự" ở trên Cường Để. Lâu lâu Hai Bác lái xe đến thăm gia đình tôi và lâu lâu Bố lại ghé thăm Hai Bác, sau khi đi làm. Mẹ và Bác Gái cùng tuổi và có vóc dáng rất giống nhau nên ngày nhỏ tôi cứ nghĩ đó là chị em của Mẹ. Trong album ngày xưa có cả tấm hình Hai Bác chụp chung với tất cả các con xếp thành vòng tròn trông rất hạnh phúc. Ở xa, nhưng hai nhà có gì đặc biệt Các Cụ cũng đến với nhau, chuyện trò bàn bạc. Ngày anh tôi cưới vợ, Hai Bác đi đón dâu. Các chị còn làm cho ổ bánh cưới xinh xắn. Ngày Dalat chạy tan tác vào cuối tháng ba Hai Bác lại chạy xe xuống xem gia đình tôi có vắng ai không... Sau này, cái xe đạp Peugeot " kinh điển " của Bố tôi bị mất cắp, Bố ít đi đâu nên lâu lâu Các Cụ mới gặp nhau...
Bố còn có một ông bạn thân khác, làm cùng nghề nên hay nhận việc làm chung. Bác Ba Long. Bác này sống một mình với mẹ già ở một nơi hẻo lánh gọi là " Suối Cát Nhà Thờ ". Ngày Tết Bố Mẹ tôi dẫn con cái đi thăm những bạn thân này như thăm viếng họ hàng. Sau này hơi lớn một chút Tết tôi ở nhà tiếp khách khi Bố Mẹ đi vắng nên mới có cảnh không biết Mộng Hằng là ai! Kỳ diệu nhất với tôi lúc nhỏ là lâu lâu Bố lại đón Mẹ của Bác Ba Long về để Mẹ tôi chăm sóc, tắm gội cho Bà ...như thể mẹ mình. Tôi thích những ngày có Bà đến chơi như thế lắm, vì Bà rất hiền, chỉ lặng lẽ ngồi giã trầu trong cái cối đồng và cười với tôi bằng đôi môi móm mém. Ngày Tết Bà còn tỉ mẩn gói những đồng bạc cắc vào giấy đỏ để " mừng tuổi" anh em tôi. Cách sống của Mẹ tôi, người mẹ quê hiền hòa nhưng cũng hết sức nghiêm khắc, là bài học trầm lặng mà in sâu vào lòng các con về tình nhân ái khi Mẹ sống như thế, khi Mẹ sẵn sàng đón nhận bè bạn của chúng tôi lúc họ cần chia sẻ, cảm thông...
Ấn tượng của tôi về Bố và các bạn là sự chừng mực và lịch lãm trong ngôn ngữ của họ. Câu chuyện của Các Cụ ngoài đề tài công ăn việc làm, gia đình con cái...còn là những quan điểm về cuộc sống. Họ am tường nhiều vấn đề quốc nội và quốc ngoại, lịch sử, văn học...Các Cụ nói chuyện với nhau bằng giọng điềm đạm, hòa nhã, lúc nào cũng "anh, tôi" vừa lịch sự vừa thân thiết. Tôi nhớ lúc nhỏ lắm có lần đi cùng với Bố đến nhà Bác Tự. Bác đang có khách nên Bác giới thiệu Bố và người kia với nhau:
- Giới thiệu với anh, anh Đại, còn đây là anh... (tôi quên rồi!)
Hai ông bắt tay nhau, và Bố nói:
- Hân hạnh.
Trí khôn nhỏ bé của tôi bắt ngay lấy hai tiếng ấy, những từ mà sau này tôi chỉ đọc thấy trong... truyện Pháp!
Sống ở nơi như Mẹ vẫn dùng một thành ngữ, " tứ cố vô thân" kiểu gia đình tôi thì bạn bè hóa thành thân thích. Khi mới lưu lạc đến Dalat, Bố Mẹ gặp gỡ rồi kết thân với hai gia đình khác nữa, mà đặc điểm là hai ông cùng họ với Bố tôi nên họ kết anh em, theo tuổi tác thì Bố tôi nhỏ nhất. Sự thân thiết đó bền bỉ đến nỗi thế hệ sau vẫn còn gắn bó như thế hệ trước, như trong gia tộc của mình, cũng phân ngôi thứ mà gọi và có mặt bên nhau khi vui khi buồn. Đám cưới các con tôi vẫn có " bác Cúc " là con gái út của ông anh lớn nhất. Dalat ngày xưa giữ lại trong lòng người Dalat xưa nhiều điều kỳ diệu.
Cuộc sống sau này ngày càng gian khó hơn, nên Bố Mẹ hầu như chỉ quanh quẩn ở nhà để giúp đỡ anh chị tôi. Lúc Bố nằm bệnh, tôi về và ở bên Bố suốt ngày. Có lần Bố bảo tôi:
- Bố có điều ân hận là cả Bác Ba Long và Bác Tự mất mà bố không biết để đến tiễn đưa.
Tôi thấy ánh mắt đã trở nên xa xăm của Bố lúc đó buồn lắm. Tôi hiểu nỗi niềm của Bố nhưng không biết nói sao để an ủi Bố. Rồi Bố mất trong ngày Tết, một dịp không thuận tiện để loan báo tin buồn. Nhưng đến ngày Mẹ tôi, rồi sau đó là Bác Tự Gái mất, cách nhau không bao lâu, thì con cái hai nhà đều đến viếng thăm, chia sẻ nỗi buồn như những người thân thuộc.
Những người thuộc thế hệ Bố Mẹ hầu như không còn nữa, các Thầy Cô nhiều người cũng đã ra đi, thế hệ chúng tôi cũng đã nhiều bạn từ bỏ cuộc đời này, nhưng những gì đã thấm sâu vào trong tâm khảm của chúng tôi, trở thành nhân cách, tình cảm và một phần cuộc sống tinh thần giá trị của đời mình thì cứ còn đấy mãi,làm ấm lòng lúc về chiều và làm vui khi được cảm thông.
Mùa mưa năm nay đang dần qua. Không biết còn bao nhiêu cơn mưa nữa đất trời mới chuyển qua mùa nắng, nhưng trong những buổi chiều này tôi đã nghe hơi lạnh nhuốm vào không khí. Không biết sẽ còn bao nhiêu mùa mưa trong quãng đời còn lại để tôi nghe mưa và lại thấy hiện lên trong tâm tưởng mình từng mảnh cũ của những tháng năm đã sống, chắp vá, tiếp nối...không thôi. Nhưng dù sao, trước khi hoàng hôn thật sự phủ xuống cuộc đời mình thì tôi vẫn thích từng buổi mai thức dậy, thấy ánh sáng phả đầy khung cửa, nghe tiếng chim chiêm chiếp trên giàn hoa trước phòng, nhìn những cái bóng bé xíu nhảy nhót dưới lá và lại thầm vui vì thằng cháu khi làm nhà đã dành một góc cho cô nó ngắm màu xanh mà thấy bình yên. Tôi vẫn thích ra bếp đun nước pha một tách cà phê rồi chia đôi cho anh với tôi, và nhớ...
Nhớ những sáng mai thức dậy, trong căn bếp nhỏ ngày xưa con bé bảy tuổi ấy học cách Mẹ pha cà phê cho Bố bằng cái vợt. Tráng nước sôi cho cái bình gốm nóng lên, rót một ít nước cho bột cà phê thấm và nở đều rồi sau đó mới thêm cho đủ nước. Hương cà phê thơm nồng nàn trong hơi lạnh buổi mai trở thành một ký ức êm đềm. Con bé đó cũng được cho một ít trong cái cốc bé bé. Thế là nhóc con mà đã biết uống cà phê, - với thật ít đường, theo cách uống của Mẹ nữa chứ! - Sau này ở xa, lâu lắm mới về hỏi Bố có uống cà phê không con pha thì Bố không uống được nữa. Đến cả trà Bố cũng không uống được luôn. Bộ đồ trà đơn sơ một lần nào tôi tặng Bố trở thành quên lãng.
Ký ức luôn luôn có cả niềm vui và nỗi buồn, cũng như giữa những ngày mưa là những hôm rực nắng. Những chậu cúc trà trước hiên dưới mưa đang đơm lá xanh tươi, chờ nắng lên để sẽ căng đầy nụ. Tôi tự nhủ năm nay nếu nhiều hoa tôi sẽ ngâm một ít rượu, để nhớ Bố Mẹ tôi với những mùa thu nhè nhẹ gió xa xưa.
Bảo Lộc, cuối tháng 9.2016
Như Luân