LÝ - ĐỖ CƯỜI * NGUYỄN-QUANG-TUYẾN

13 Tháng Giêng 201412:00 SA(Xem: 11012)

LÝ - ĐỖ CƯỜI


"Tôi xin gởi đến Đỉnh Sóng phần cuối truyện ngắn Quê Nhà: Lý-Đổ cười, như lời chúc của một người đang sống ở quê nhà, mong ước càng ngày Đỉnh Sóng càng cao, càng là đuốc sáng cho nhiều ước mơ còn mù mờ trong tuyệt vọng... - NQT."

Từ ngày có khu kinh tế mới Dung Quất, nằm giáp ranh giữa Quảng Ngãi với Quảng Nam, thì phi trường Chu Lai được hồi sinh. Trước bẩy-mươi-lăm, Chu Lai là căn cứ quân sự Mỹ, chỉ có phi trường quân sự. Bên những đụn cát đùn lên cao làm chiến hào, công sự phòng chống du kích xâm nhập, phi đạo như dấu phẩy nhỏ nằm giữa trang giấy trắng, là trảng cát kéo dài từ biên Quảng Ngãi đến gần cầu An Tân của tỉnh Quảng-Nam.

Dân Quảng phía nam nôn nao chờ đón vì muốn tỉnh mình cũng có sân bay; nhưng rồi thời gian trôi qua, lòng bồn chồn theo ngày tháng thờ ơ đi, vì sự thích thú không thắng được tính cách cần kiệm của dân xứ nghèo.

Mỗi tuần hai chuyến máy bay cánh quạt ATR sức chứa bảy-mươi khách bao giờ cũng lưng lửng đầy một nửa. Ngoài mấy kỹ sư chuyên viên khu lọc dầu Dung Quất, vài Việt Kiều gốc Quảng về thăm quê hương, vài doanh nhân, quan chức địa phương hay năm ba người dân vào Saigon có việc gấp, còn dân thường thì vẫn di chuyển bằng xe đò .

Tôi đi trong chuyến bay trưa thứ bảy vào mùa hè. Phi trường Chu Lai tiếp giáp với biển và cảng Kỳ Hà, từ cảng hướng chạy về phía bắc là giòng sông Trường Giang chạy song song quốc lộ bắc-nam, suốt dãy xương sống tỉnh Quảng Nam ra đến tận Hội An. Ngã ba nước chẻ hai, chẻ ba Tam-Anh, Tam Quan, Tam Hải là vùng cá tôm nổi tiếng cả miền Trung. Sông Trường Giang dài trên bảy mươi cây số ngăn cách với biển bởi một lưỡi đất cát dài như con thuồng luồng uốn éo gánh bớt cái hung hãn của biển khơi. Trường Giang vừa dịu dàng vừa nhu nhã, vừa kiên cường ôm gọn đám cư dân nghèo trong cánh tay nuột nà cát trắng.

Tại phi trường Chu Lai, tôi được gặp ông Lý Đỗ trong một cảnh ngộ thật trớ trêu, phi-cảng như chiếc hộp diêm nằm giữa trảng cát nóng, ngập ánh nắng chói chang. Hơn vài chục hành khách đã làm thủ tục, xúm xít quanh mấy dãy ghế, nhìn ra cát trắng chen lẫn những lùm cây lù xù như đám nhím xỉa lông thi gan cùng gió cát.

“Quảng Nam hay cãi”, bây giờ hình như người Quảng đã bớt cãi nhau, mà cái nhu cầu nói, nói nhiều, nói lớn được thỏa mãn với chiếc điện thoại di động (họ gọi là cái a-lô). Điện thoại cầm tay đến với người Quảng như “cửu hạn phùng cam vũ” (nắng hạn lâu ngày gặp mưa sa). Xưa nay dân Quảng gặp nhau, ngồi với nhau mới khởi đầu tranh cãi, để“ăn to, nói lớn”, thì bây giờ chỉ cần một người Quảng với cái “a-lô” là họ có thể cười hả hê, nói huyên thuyên, vung tay, trợn mắt… rộn ràng mà chẳng cần có ai bên cạnh mình.

Cái “a-lô” đã thay đổi phong cách của người dân xứ Quảng, như vũ khí thay đổi thì cách đánh của chiến binh đã khác và chiến tranh cũng khác! Cái tính hay nói, hay nói to, hay có những câu hỏi tò mò vào đời sống cá nhân người khác đã được thay thế bằng niềm vui “mi mi, tau tau với cái a-lô”. Cũng như tính “táncủa các bà, các cô mà gặp “chat”, gặp Facebook. Ôi lắm nàng ôm cái Ipad hoặc cái điện thoại Android như ôm người tình, rỉ rả tâm tình suốt ngày đêm không biết chán. Một thời buổi mới đã chuyển biến tính chất của người địa phương, của xã hội…

Phòng chờ ngợp trong cái nắng nóng thì ít hơn cái ồn ào của quá ba mươi vị Quảng và bằng chừng ấy cái “a-lô” cùng giọng nói ồm ồm và chát chúa. Một ông già ngồi bên tôi là ngoại lệ, ông trố mắt nhìn hết người này, người nọ. Ông như luống cuống trong chiếc áo bà ba bốn túi mới tinh màu trắng và chiếc nón phớt ny-lon màu vỏ trứng .

Khuôn mặt ông đen nâu, những vết nhăn cày xới trên nếp da mờ dấu thời gian của tuổi tác, tóc hoe hoe nâu đen… đúng là dân miền biển cát xứ Quảng. Càng rõ hơn, ông đúng là người dân chài, khi nhìn đôi bàn tay đen rám, các đầu ngón tay khắc sần các vết khứa nát màu đen. Đó là vết cứa của các sợi cước câu, lưới vây, khi bàn tay quần quật níu kéo nhọc nhằn mưu sinh trên biển sóng. Đôi mắt lão đen và sáng tinh ranh, tò mò đảo qua lại, giữa mọi tiếng ồn ào kêu réo từ “các cái a-lô” chung quanh, như lão thày bói già, dẫu chẳng thấy gì, vẫn ngoảnh tai về hướng nơi có lời qua lại liên hồi…

Chợt lão quay qua tôi:

Nè anh ở mô rứa? Đi mô hè?.

– Ô, tôi dân Diêm Phổ. Bác đi Saigon chơi?

– Thấm chi Saigon! Đi Mỹ chớ. Hai đứa ni là con gái tui nè. Anh ở Cây-Trâm, Diêm-Phổ, chu choa! Chỗ nứ có mì quảng với cua coớm rôm vàng ngon hỉ, già như tui mà mần hai boát lớn! ( cua lột ram vàng ngon, già như tôi mà cũng ăn được hai tô lớn)

 Lão nói như hét lớn giữa cái chợ âm thanh the thé bên trái, bên phải. Cô gái ngồi bên cạnh tôi hình như là sinh viên cười lớn với cái “a-lô”:

“– Reng, mi núa reng! Tối qua tau từ giã ảnh rồi, chu choa, mùi hết biết!”…

Anh thanh niên tay xách cặp, đứng bên khung kính nhìn ra phi đạo hừng hực nóng, tay áp sát với cái “a-lô” nói như nạt nộ với ai:

“– Tau đỏa núa! Dứt khoát ! Dứt khoát, hợp đồng đỏa ký, cứ rứa mà thi hành! Đã núa không thêm, không bớt! Đã núa… Đã núa…Phaải chẹt chẽ! Phaải lồm cho uy tín!”.(Tôi đã nói dứt khoát, hợp đồng đã kí, cứ thế mà thi hành. Đã nói, phải chặc chẽ, phải làm cho có uy-tín)

Phía sau lưng, đằng trước mặt, một chợ âm thanh rộn rã, nói như cãi, nói như chửi, tay chân vung vẩy…

Tôi thích thú, bởi được tắm đẩm trong âm thanh quê hương quen thuộc thuở ấu thơ, nhắm mắt mơ màng nhớ đến những đêm hát bội ở đình làng quê xưa, tiếng trống, tiếng hát, tiếng ồn ào che lấp tất cả mọi ý nghĩa của câu hát tiếng hò. Ờ, mà cần gì hiểu nghĩa cho lắm đâu, đối đầu với sóng gió biển khơi gào thét, phía xa xa là rừng thẳm núi cao… mấy trăm năm cũ, ông cố, ông sơ người Quảng phải nói to, hét lớn để hợp quần chống chỏi bao nghịch cảnh và chống chỏi cả lòng sợ hãi của chính mình. Từ thời dựng nước, hơn bốn năm trăm năm trước, sau lưng là Hán gian và quan quân xua đuổi, trước mặt là người Chàm quyết tử bảo vệ biên cương, người Việt-Quảng Nam có vũ khí nào hơn hợp quần, hét lớn nói to giữa trùng trùng gầm thét của thiên nhiên lạ lẩm. Tôi dựa lưng vào ghế, nhắm mắt nghe như xôn xao giữa chợ làng quê xứ Quảng ba mươi tết.

– Reng, anh mệt lém soau? Ông lão bên tôi lên tiếng hỏi .

– Dạ, không cháu đang nghe…Bác ở đâu miệt biển .

Tui dân Tam-Hải, qua đò An-Hòa. Tới gành Bàn-Than hỏi ai mà không biết tui , Lý Đỗ, cứ nói Đỗ-nục là ai cũng biết.

– Sao gọi bác là Đỗ nục?

Chu choa anh biết reng không? Biển xứ mình hết cá chuồn tháng ba là đến mùa cá cơm than, gần cuối tháng bảy là qua mùa cá nục. Tui mà nhìn con nước, ngửi gió biển là biết chỗ mô bủa lưới vây cá nục. Đả lắm anh ơi! Ghe boạn (ghe bạn) thấy tôi cho ghe đi đâu là theo, en chét (ăn chắc) trúng lớn. Nẩu núa (họ nói): “Cứ theo ông Đỗ nục là trúng, mà thiệt”. Nước biển xanh lớp lớp, cá nục bay túa lên, khép vòng lưới, ôi trời ơi, ngàn vạn con cá xanh óng mướt dưới ánh néng (nắng) đẹp lắm anh ui! (anh ơi)

Mắt lão lim dim thả hồn về làn nước biển xanh đầy cá chuồn, cá cơm, cá nục….

Chao ui! Nồm vừa đổi qua, bấc thổi về, ở trong bờ, sóng lớn bao nhiêu, thì ngoài, nhiều cá bấy nhiêu. Tôi là Đỗ nục mà, thấy dờn dợn sóng nhấp nhô, là biết ngay choóc nục boạc ngoàn sa số là nục anh nề (ngay chóc cá nục bạc ngàn sa số là cá nục anh à).

Hai chị em con gái ông Lý Đỗ ngồi ở hang ghế đối diện bên kia lối đi, cô chị tóc nhuộm màu nâu vàng, son phấn kỹ, cô em ốm và đôi mắt thất thần, lạc lõng.

Choa nề (cha này), reng có mệt không choa. Cô em lo âu hỏi.

Ui.. ui.. giòa rùi, reng biết được mi hè! (già rồi làm sao biết được). Nó lên cơn khi ai biết .

Lão đưa tay đen đúa đè lên khung sườn ngực lép cúi xuống vờ như mệt rồi khề khà:

– Anh biết không nề, dân biển tụi tui lâu lâu không đi biển nhớ chịu không nổi nề, chiều chiều ra biển ngóng chờ ghe về nhớ chết được nè! .

Có tiếng o o xen vào cái chợ rôm rả, ồn ào của hàng chục người khọt khẹt cười, thút thít khóc bên cái”a-lô, ngoài khung trời hừng hực đổ lửa, chiếc ATR hai cánh quạt quay vào sân đậu.

Hơn hai mươi khách đi như chạy vào phòng đợi lãnh hàng, để tránh cái nóng như nung. Lão Đỗ rút đôi chân gầy đen, như que củi ra khỏi đôi dép nhựa, ngồi chồm hổm trên đó, trên ghế người vẹo nghiêng như đang mệt… .

– Cha ri liệu có đi được không cha? Người con gái lớn đứng dậy, đến gần hỏi.

Chi núa chi lọa hè (Chị nói chi lạ hè). Choa khỏe hơn chị em mình nữa . Phải không choa? Đứa em cũng lại gần.

Khi có hai đứa con gái đến bên cạnh, cầm đôi tay đen nẻ, xướt như vết đen tưa trên ngón tay. Lão Đỗ lim dim đôi mắt, thở như mệt nhọc:

– Giòa! Giòa rồi , biết reng, núa trước được chi. Yên tâm choa khỏe mà.

Hai đứa con gái về chỗ ngồi. Lý Đỗ hấp háy đôi mắt tinh quái nhìn chiếc máy bay phập phò thở trong nắng rát.

Hơn ba mươi hành khách xếp hàng, hành ly xách tay của dân quê, thôi thì, lủ khủ gói, cột, túm, mang… hàng chục cái a-lô reo đủ thứ nhạc chờ lạ tai, dậm dựt trong đó chen lẫn cả câu cải lương, bài hành Phương Nam, bài Lý Ngựa Ô, cả nhạc rap… Cô con gái đi trước, vai phải đeo xách thời trang, tay kéo va-li màu hồng, vai trái đeo túi lưới có mấy bịch tỏi Lý Sơn, mấy gói bánh đậu xanh khô, tay trái cầm điện thoại áp sát tai, vừa đi vừa hét :

Thoôi …em đoang roa moáy boay… Chu choa chi rứa mà chờ chết được… Thoôi…đi nghe!... Đi nghe…

Mười mấy cái a-lô, cái gọi tới, cái réo đi, … trong gió biển phần phật thổi hơi cát nóng bừng, chẳng có bóng cây xanh. Quả là người Quảng thật là ồn ào!

 

Tiếp viên yêu cầu khách kiểm tra cài dây an toàn, lưng ghế dựa thẳng, tắt máy điện thoại, không hút thuốc.

Ông Lý Đỗ ngồi trước tôi hai dẫy ghế, máy bay còn mấy mươi ghế trống.

Tôi ngồi bên cửa sổ nhìn ra bụi cát và nắng lung linh đổ hoa, thấp thoáng mấy bụi gai như rủ nhau chạy tránh gió cát.

Máy bay cất cánh, anh thanh niên trẻ ngồi bên tôi lặng lẽ đọc báo. Tất cả các cái”a-lô” bị tắt, không gian được trả lại yên tĩnh ngoài tiếng động cơ đều đều. Đây đó những tiềng rầm rì nho nhỏ, cô tiếp viên thông báo sẽ phục vụ khăn lạnh, nước giải khát và yêu cầu khách đừng rời chỗ ngồi, nếu không có nhu cầu… .

Chưa quá năm phút bay, bỗng người con gái lớn của Lý Đỗ, ngồi cạnh ông la lớn :

– Choa! Choa ơi, choa reng rứa choa?(cha ơi cha làm sao vậy).

 – Reng, reng, sô ổng trợn dộc mét lên rứa trời! (sao ông trợn ngược mắt lên vậy trời). Cô em ngồi ghế sau chồm lên băng trước la choai choái.

Choa! Choa! Trời ơi, cô tiếp viên ơi! Heo, heo ( help, help!). Cô chị Việt Kiều la lớn.

Cả dàn đồng ca dân quê tôi nhốn nháo, ồn ào, không gian nhỏ hẹp ồn ào hẳn lên trong lòng chiếc máy bay nhỏ giữa lưng trời. Hai người tiếp viên chạy đến bên Lý Đỗ :

– Xin quý khách ngồi xuống tại chỗ của mình, xin quý khách đừng chạy qua, chạy lại, xin quý khách giữ yên lặng cho .xin…xin ..

Như nước bờ đập đổ ào khi vỡ, ba mươi mấy người, mỗi người một câu “reng, rứa, cho, mô, lọa quá!”, đủ đinh tai, nhức óc. Trổi lên trên dàn đồng ca đó là giọng cô út ông Lý Đỗ : 

Choa ơi, Choa tỉnh lại mòa, chi lọa rứa choa! Cô khóc rưng rức, mấy mươi chiếc đầu đều quay về mái tóc muối tiêu và nước da đồng đen miền biển của lão Lý Đỗ, chúi xuống trên thành ghế. Tiếp viên hàng không mang bình ốc-xy đến, sơ cứu qua loa rồi qua buồng lái báo tin với cơ trưởng. Lay, xoa, bóp, xức dầu …Lý Đỗ vẫn không nhúc nhích… nhiều người la lối với tiếp viên :

– Ông lão tét thở rùi! Ông lão chêết thiệt rùi !( tắt thở rồi, chết thiệt rồi)

 Anh tiếp viên và cô bạn đồng nghiệp quýnh quáng ra vào bối rối.

– Thưa quý khách có ai trong quý khách là y sĩ, bác sĩ không?

Anh thanh niên trẻ ngồi bên tôi, đứng dậy lên chỗ lão Đỗ-nục, cô con gái con ông già xuống ngồi cạnh tôi. Anh thanh niên trẻ cởi nút thắt áo quần ông lão, anh hỏi cô tiếp viên :

– Trên máy bay có ống nghe, dụng cụ đo huyết áp không?

– Dạ có.

Cô tiếp viên quay đi lấy dụng cụ y tế cho anh bác sỹ trẻ. Mười mấy chiếc đầu chồm lên, im lặng nhìn ông lão Lý Đỗ giật giật tay chân, nhưng vẫn mê man bất tỉnh. Anh bác sĩ trẻ nghiêm nghị lắng nghe, bên cả chục lời rầm rì xen lẫn với tiếng máy bay.

– Nhịp tim hơi nhanh ! Ông già như ngất đi, không có cách gì làm ông ta tỉnh lại.

Anh bác sĩ trẻ bỏ ống nghe trở về chỗ ngồi.

– Bác sĩ khám thấy thế nào rồi?. Tôi hỏi.

– Dạ em là nha sĩ, chẳng biết làm cách nào, mọi sự bình thường chỉ có người ông lão rũ ra bất tỉnh…

Tiếp viên chờ chỉ thị mặt đất và thông báo cho hành khách:

– Máy bay sẽ quay về phi trường Chu- Lai đưa bệnh nhân nhập viện cấp cứu. Quý khách thắt dây lưng an toàn và ngồi yên tại chỗ…

Râm ran đây đó nhiều giọng xì xào, tri trô:

Reng quay lại…, tau thấy máy bay nó đảo lại, chắc là tới Bình Định rồi!

– Không chưa mô ô …mới tới Bồng Sơn…

– Đã núa…mới boay mà. Chừ mới tới Tôm Quang ..

 Người Quảng với nhau có cơ hội là cãi, ai cũng muốn khẳng định ý kiến riêng của mình.

Tiếp viên hàng không đi qua lại kiểm tra dây đai, ghế dựng thẳng… và nhắc nhở :

– Xin quý khách giữ yên lặng, yên lặng cho. Xin không sử dụng điện thoại di động…

Mấy mươi cái ”a-lô đã sẳn sàng” trên tay , như chiến-sĩ sẵn sàng tay súng chờ lâm trận, mấy mươi cái đầu trồi lên xuống, thấp thỏm… chỉ mong có cơ hội, để mình phải là phóng viên đầu tiên đưa tin sốt dẻo cho người thân dưới đất.

– Út ơi, răng choa thở đều hơi và như ngủ, như ngất rứa mi?…. Cô chị nói với cô em gái Út.

– Đã núa, reng mô, choa đau chi mà lọa! (Cha đau chi mà lạ!).

 

Máy bay hạ cánh, phì phò thở dốc quay vào sân bay Chu Lai. Vừa đứng yên, tắt máy, viên phi công ngoại quốc mở cửa nhìn vào bệnh nhân. Mấy mươi chiếc a-lô nhao nhao, trai, gái, già trẻ, cùng la hết công suất, hết mọi cách mô tả, giật gân gấp trăm lần, hơn những gì tôi chứng kiến. Quả dân Quảng có năng khiếu làm báo viết , báo nói, báo hình…

– Biết không … biết không, bay trở lại Chu Lai rồi, có người chết trên không. Trời ơi. Khó mô tỏa nổi! Giật giật! Lè lưỡi! Chết tại chỗ.”

– Anh ơi, em núa cho nghe, - Cô gái trẻ tóc vàng nói – phải bay trở lại, ông già sùi bọt mép, bác sĩ bó tay nè. Bác sĩ cạy miệng ra không được nè. Anh ơi sợ quá, anh ơi...”

– Trời ơi mi biết không, hai đứa con gái mà đành ngồi nhìn choa chết thổm! (Cha chết thảm!) giữa trời mi ơi. Bây giờ chờ xe đến khiêng xác xuống, tau nhớ đời! Tau nhớ đời!”. 

Tất cả hành-khách vẫn còn ngồi yên trên máy bay mà nhao nhao nói như bầy chim bù chao thi nhau hót lao xao trong bụi cây rậm giữa trưa hè oi ả.

Hai cô con gái nhờ tôi và anh nha sĩ xốc nách đỡ ông Lý Đỗ xuống cầu thang máy bay. Tôi thấy mặt ông vẫn tươi nhuận trong sắc da đen lẻm cố hữu, chiếc nón phớt hất gọn ra sau, cánh tay quàng qua cổ tôi, rõ là có có sức ghì, kéo, của một sức sống, không phải là một xác “chết thổm” như mọi người lo âu. Ông Đỗ-nục hé mắt nhìn tôi, lẹ làng xốc bàn chân đen xù xì vết nứt vào đôi dép nhựa dưới sàn ghế.

 

Phi trường mỗi tuần có hai chuyến bay trưa thứ ba và thứ bảy, ra vào Saigon. Hôm nay thứ bảy khi máy bay cất cánh, tất cả mọi hoạt động ở phi-trường ngưng nghỉ, đóng cửa, dọn dẹp… Chỉ còn mấy người bảo vệ và trực ca ra vào.

Cô em kêu taxi đưa bệnh nhân đến bệnh xá gấp sau khi nhân viên dưới đất làm thủ tục trả hành lý của cô em Út và ông già Lý Đỗ. Máy bay chờ tiếp liệu và sẽ tiếp tục bay về Sai-Gòn.

Trong khi hành khách ngồi chờ ở phòng đợi để máy bay tiếp nhiên liệu và sẽ tiếp tục bay về Saigon tôi và anh nha sĩ giúp đưa ông lão đến bệnh xá cùng cô con gái Út. Bệnh xá, theo tài xế taxi, đi mười phút là tới. Cô em Út ngồi ghế trước bên tài xế, tôi và anh nha sĩ đỡ ông Lý Đỗ nằm xoài trên ghế sau.

Xe rời phi trường, chạy qua khỏi cổng thu phí, lão Lý Đỗ trở mình, dựa người vào ghế và nói như người vừa ngủ dậy:

Nì, mở máy lạnh chi, bác tài ? - cho tôi gió biển…, ngộp quá, ngộp quá…

 Tôi quay kính xe xuống, lão dướn người lên, mắt hấp háy nhìn về hướng hàng dương xanh đang run rẩy ngày, đêm vẫy gọi biển khơi.

– Nghe mùi gió biển sôô nó khỏe re! khỏe re!( Sao nó khỏe re ! khỏe re !)

 – Choa không chịu đi với chị Hai, cha giả bộ ngất, chỉ làm khổ con.

Lão nhắm mắt, mũi hin hin hai cánh như mũi thỏ tìm rau xanh, hít dài hơi gió biển thân quen, tay lão để trên vai tôi bóp nhẹ, cười hóm hỉnh .

– Đi cho bằng về quê mình con. Út à, con cứ về Tam Kỳ, Đà Nẵng, ở với chồng con. Cứ để choa một mình ở ngoài bãi rạng Bàn-Than. Có sôô đâu con? .

Reng không sôô ! Choa núa rứa mà nghe được sao choa. Một mình choa lủi thủi dưới tán dừa, biển khơi, khi nắng gió sớm hôm ai đỡ đần! Tụi con sống sao yên tâm cho được choa?. Cô Út rưng rức khóc.

Điện thoại lão Lý reo vang trong túi áo, lão lụp chụp lần tay lấy ra, lão rút chân để lên ghế như người ngồi chồm hổm trên nệm, thanh thản, chậm rải nói :

“– A lô nà! A lô nà! Lão Chư hả?. “ – Ơ, ơ, mình đây , Đỗ- nục đây. Hử.. hử? Reng mà đi được nà, phải về chớ nà. Đi bằng ở quê mình, hôm trước mấy lỗ (lão) rót rượu chia tay, mình núa không có đi mô đâu nà! Mình đi lên mé boay cho biết thôi moà . Reng hả , ghe lưới thằng út Lực con anh đã vô bờ chưa nà? - Vô rồi hả, có nục suông không hè, nhiều hả? Xế xế tôi ghé rủ lão Đởm, Ba Hà tụi mình xôốp vô (xáp vào), tôi kể chuyện bay lên côo (cao) cho nghe…ờ, tui mua tráng nướng ở chỗ chợ đem qua bển hè!”

Lão tắt a-lô mắt rạng rỡ, chẳng còn chút vết tích con người nằm thẳng cẳng, ngáp ngáp, tưởng đã chết ở lưng trời. Tôi quay sang lão hỏi nhỏ :

– Cá nục suông là cá gì vậy bác Đổ?

– Anh xa quê nhà lâu rồi quên bén hết rồi! Mùa chuyển nồm này, biển giăng trúng một mẻ cá nục suông, là thôi hết biết! Da cá xanh óng, nhấp nhánh trong nắng, xanh như mắt mèo. Suông, thon, tròn lẳn non tầm gang tay. Chu choa! Cá nục suông mà luộc sổi, hấp sổi với chút nước biển, mềm rụm như chẳng có xương… Chu choa! Rồi rau muống cỡ gang tay cắt ngọn ... Chu choa! Rồi bánh tráng nướng xong, nhúng nước mềm rôm rốp Chu choa, rồi chén nước mắm nhĩ ớt tỏi cay nồng…rồi Chu choa…ba bốn tay già ngồi trên chõng tre, dưới gốc dừa bên bãi rạng nghe gió biển ù ù … Chu choa… một ly rượu trắng nhỏ, rôm rốp , rôm rốm, kén (cắn) rồm rộp.. Chu choa... ôi, anh nó sướng râng râng người anh nà, sướng lắm anh nà. Có chổ mô cho mình được cái hạnh-phúc ni anh hè?

Giọng lão nhỏ dần, nhỏ dần, mắt lão nhắm lại, miệng lão mỉm cười trên khuôn mặt đen nhẻm, rạng rỡ. Lão cười trông sao sung sướng đến thế, khóe mắt lão ròng ròng một hàng nước mắt chảy dài. Lão nói trong xụt xịt nước mũi, trong nụ cười trên môi:

– Út à rứa làm răng choa xa quê con ơi! Choa không thể đi đâu con à. Cô gái Út quay lại mắt đỏ hoe nhìn cha già , vừa cười vừa xụt xịt:

Choa cứ rứa, cứ chết dí trong xóm rạng, không điện, không nước, chỉ có gió và biển khơi sầm sập, sóng đánh vào hốc đá suốt ngày đêm. Gần đến bệnh xá rồi, cha vô cho họ … khám qua, rồi con để hai anh ni, bay vô Saigon nữa!.

– Bác Đỗ thấy khỏe chưa bác?

Lão lại bóp vai tôi nói nhỏ:

Sôô mòa (sao mà) chết được anh ? Dân xứ Quảng mà, như cái ông Trình Giảo Kim trong truyện tàu, phoang boa búa (phang ba búa) mà không thắng được thì thua, lão chỉ có boa búa thôôi (ba búa thôi)…hà, thua là lão nằm lăn quay ra đất, lão ta mạng thổ, có hơi đất là lão sống lại, rồi tiếp tục phoang boa búa khác! ..Ha ha.., dân Quảng quê tui cũng vậy mà, đau khổ, thất bại ê chề chỗ trên đường làm eng (ăn) bôn tẩu, thì cứ lếch thếch về, đặt chân lên đất quê nhà là tỉnh lại liền, là sung lên rồi lại ra đi tiếp tục phoang boa búa nữa! Hà ..hà ..tui reng chết được anh, chỉ cần về lại quê nhà, nghe mùi gió nồm nực mùi biển khơi, mùi tanh tanh của cá là tui tỉnh lại liền à.

Lý Đỗ cười ranh mãnh, mắt lão lim dim, trong khóe mắt sáng lên đầy ngụ ý.

Tôi và anh bạn trẻ từ giã Đỗ-nục và cô con gái út đứng ở cửa bệnh xá mắt đỏ hoe, lên xe trở về phi trường.

Hành khách vẫn còn ngồi đứng la liệt trong khu cách ly, ồn ào, rộn rã với các “a-lô” của mình.

Cô chị thấy chúng tôi về, sà đến hỏi gấp:

– Cha tôi tỉnh lại khỏe chưa anh? Mắt cô cũng hoe hoe đỏ như cô em.

– Vậy cô Út chưa điện cho cô à? Tôi hỏi.

– Nó giận tôi, nó giận ông già, từ lúc lấy hành lý đưa cha tôi đi, chẳng điện cho tôi. Sao rồi anh?.

Tôi tần ngần không nói hết suy nghĩ của mình.

– Bác hơi khỏe rồi cô, đã tỉnh lại, đã vào nằm nghỉ trong bệnh xá, tôi chắc bác nghỉ yên tĩnh trong thời gian ngắn sẽ khỏi thôi. Tuổi già là vậy cô à.

– Tội nghiệp con Út, Cha tôi chuớng lắm anh ơi. Con út, nó thuyết phục khản cả cổ, ông mới chịu theo tôi qua Mỹ. Bên đó có đầy đủ điều kiện thuốc men, y tế chăm sóc cho người già… Chứ cha già mà sống một mình ngoài bãi rạng Bàn Than thì tội quá…Tôi theo chồng qua bên đó hơn mười năm rồi, đời sống cũng ổn định, đây là lúc tôi phải lo cho cha già. Nhưng anh cũng biết việc cung cấp tiền bạc không khó , mà … Cô chị nói nhỏ dần, miệng mếu máo nói không thành lời.

– Rồi sao cô? Tôi hỏi.

– Khi tôi mới đi, em gái Út của tôi mới hơn mười tuổi, sau đó năm năm mẹ tôi mất, nhà chỉ còn nó thui thủi vừa chăm cha già vừa đi học. Nhà tui ở ngoài rạng Bàn Than, qua bên kia bến đò An Hòa, căn nhà lợp tôn trong tụm dừa nhìn ra biển cả mênh mông, Chao ôi, đêm đêm nghe sóng vỗ vô hốc núi Ban Than soàm soạp, oàm oạp xen trong gió biển, buồn vô hạn anh ạ. Tôi bao lần làm đơn bảo lãnh cha và em, nhưng nhất định cha tôi không rời căn nhà nhỏ nơi bải rạng, không rời được tiếng oàm oạp ngày đêm của sóng biển…Con Út làm sao đi đâu. Rồi mấy năm trước, con Út gặp anh chàng công nhân gốc Bắc, làm ở khu công nghiệp Chu Lai, hai vợ chồng nay đã có một đứa con trai, đang tính về Tam Kỳ ở, vì chồng nó có quen biết, nên được đổi về làm ở Sở Tài Nguyên Môi Trường Quảng Nam. Nó cứ thậm thụt chạy ra, chạy vào lo âu, áy náy về cha già…Anh nghĩ coi… Cô lại rấm rức khóc, lấy khăn lau nước mắt và nói nhỏ … .

– Rồi sao nữa cô? Tôi gạn hỏi.

– Ôi, nó nói nghe mà thương quá anh ơi. Lần trước tôi về thăm quê mươi hôm, hai chị em về căn nhà cha dưới rạng, sống với cha già đôi ngày. Chỉ vài ngày là đi, bây giờ mình quen sống với tiện nghi thành thị, ngủ chõng tre, bếp củi, con mòng, con bù-hóng chích sưng chân tay mặt mày… Đêm đến, không điện, ngọn đèn tù mù tỏa ra khói, gió hun hút qua mấy phên tre, nghe sóng oàm oạp vỗ vào hốc núi. Choa ôi sao mà nó buồn thúi ruột anh ơi! Con Út nói với tôi và cha: “Chị Hai ơi, chị cho cha qua bển để biết đây biết đó, suốt đời cha mẹ có đi đâu qua khỏi cầu An Tân. Bên đó có bác sĩ, có thuốc men, dầu có vô dưỡng lão, như chị nói, buồn lắm thì cũng có người đẩy xe lăn, có người làm bạn …. Chứ ở đây chị coi cha cứ thui thủi quẩn quanh qua mấy gốc dừa, mấy ông bạn chài lưới già. Sáng sáng, chiều chiều… cứ đi quanh quẩn chờ từng chiếc ghe lưới cưỡi sóng trở về, cứ luẩn quẩn ngó từng lưới. từng ghe xem thúng cá cơm, cá chích, con chuồn, con mực…tươi rói. Ông đi quanh quẩn , miệng móm sọm, mắt kèm nhèm , cười vu vơ … Rồi đảo về, lủi thủi một mình bắc niêu cơm trên ba ông táo, thở dài khi lên thắp cây nhang trên bàn thờ mẹ …rồi ra, rồi vào…. Chị ơi.. chị đưa cha qua với chị đi, chị ơi!...” Anh coi nó nói rồi nó khóc, nó như quỳ xuống ôm gối tôi mà nói… .

– Rồi sao nữa cô?.

– Làm sao khác được anh? Tôi làm thủ tục bảo lãnh cho cha tôi qua thăm con cháu vài tháng xem sao, rồi sau đó tính tiếp. Nhưng anh biết đó, cảnh sống ở bên đó có vui vẻ gì cho cam. Đêm qua tôi không ngủ được, thâm tâm tôi không muốn đưa cha tôi đi vì cứ nghĩ cha già ngơ ngác giữa những người xa lạ, cảnh vật xa lạ tại viện dưỡng lão. Lúc chiều qua tôi và con Út, từ Tam Kỳ xuống rạng Bàn Than đón cha già. Ổng bảo hai đứa làm mâm cỗ thưa với mẹ rồi đi. Ông thắp nhang trên bàn thờ mẹ tôi, nói chuyện với lư nhang trên bàn thờ mà như nói với người sống :”Bà ơi, bà coi nhà, tui đi dăm ngày, nửa tháng rồi về; tui qua coi mấy cháu ngoại , con con Hai nó ra reng?”. Nói xong ông ra trước hàng dừa trước cửa nhà, vịn cây ngóng biển mà sụt sùi. Ôi, anh ơi, cha tui thấy không đâu vui sống bằng chốn này. Tôi đưa cha đi xa như là đem nhổ dây khoai ra khỏi vồng cát, dây khoai sẽ héo úa mà chết. Bây giờ ông bị đau mà ở lại tôi mừng, tôi chỉ thương con Út. Tôi nghiệp nó, bên chồng, bên cha già, tôi khổ tâm hết sức biết làm sao anh?

Tôi yên lặng nhìn cô Hai. Khách xếp hàng lên máy bay để tiếp tục hành trình. Tôi nói với cô gái lớn lão Lý Đỗ, mà như thầm nhủ với chính mình:

– Cô ơi! Như Trình-Giảo-Kim “họa thổ thôi mà” (hạ thổ thôi mà). Có chi mô! Đặt được bàn chân xuống mảnh đất quê hương, có hơi đất quê nhà là mình tỉnh lại, tiếp tục đi phoang boa búa  nữa mòa. En thua chi mô ( đi phang ba búa nữa mà, ăn thua chi mô !).

 Khi máy bay cất cánh, qua khung cửa sổ, tôi thấy biển xanh và sóng trắng cùng cả rừng dừa xanh ngút ngàn đến tận mũi núi đá Bàn Than bên cảng Kỳ-Hà. Tôi mường tượng hình ảnh mấy ông già, tóc bạc, da mồi, da rám nắng đang ngồi trên chỏng tre, rôm rốp bánh tráng nướng với cá nục suông, tiếng cười ha hả lẩn trong tiếng sóng oàm-oạp lùa vào hốc đá. Làm sao họ có thể đi đâu xa ngoài sóng gió Quê nhà? Tôi như nghe lão Đổ-nục lên tiếng:

-Nề, mấy lão nề! Tụi mình như mấy ông Trình-giảo-Kim , boàn chưn độp được trên đất quê choa thì reng moà chết được hè ? (Bàn chân đạp được trên đất quê cha thì làm sao mà chết được?)

 NGUYỄN-QUANG-TUYẾN

 ( Dalat, tháng 12/2013)

Nguồn: Diễ Đàn Đỉnh Sóng/Internet/chuyển bơỉ THĐ Trần Ngọc Thạnh

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn