Y gặp lại người thầy học cũ một ngày mưa lớn. Con đê chạy
dọc hữu ngạn sông Đáy chỗ đó là giữa quãng Ba Thá, Vân Đình. Đường lầy. Kẻ đi
ngược, người về xuôi. Cuộc kháng chiến gian khổ thu lại trong giây phút gặp
gỡ bất thình lình một nỗi tủi mừng rưng rưng và cái hình ảnh buốt lạnh của
con đường dài thẳm, trùng điệp hầm hố dưới mưa bụi trắng xóa. Xa xa dấu vết
những làng xóm tiêu hủy còn lại.
Hai thầy trò nắm chặt tay nhau, mưa vẫn đổ lớn – cùng chạy đến trú dưới một
gốc cây. Nhiều năm tháng qua đi từ ngày bỏ trường lăn mình vào cuộc đời, bây
giờ Y đã lớn, đứng cạnh thầy cao hơn thầy hẳn một cái đầu. Thầy thì tuổi già
đã làm cho thân hình nhỏ lại. Nhưng giữa hai người vẫn không có sự thay đổi.
Người thầy vẫn vững chãi và tự tin hơn. Thái độ gương mẫu và che chở bên
trong cửa lớp ngày nào Y vẫn nhận được.
“Thầy ở đâu xuống?”
“Tôi ở Ba Thá xuống”.
“Thầy vẫn dạy học”.
Người thầy học cười hiền lành:
“Phải, tôi vẫn dạy học nhưng trường làng vừa bị bom đốt cháy chiều hôm qua.
Hôm nay tôi phải về Ty báo cáo. Ty ở dưới Vân Đình. Tôi mất hết, chỉ chạy
được những cái này.
Những cái này: một cái bị cói, mấy bộ quần áo nâu và một cái gậy trúc.
Y nhìn cái cơ nghiệp nhỏ nhoi vô nghĩa, những đồ tùy thân cuối cùng còn sót
lại của một cuộc đời đạo đức và liên tưởng tới hai hình ảnh: vị chân tu của
một thời đại nào đi truyền bá trong khổ hạnh những tư tưởng đẹp cho nhân loại
và hình ảnh một con đường mưa bay, buổi chiều xuống trên liên khu rộng lớn,
người thầy học cũ lại một mình bước đi trên con đường đó mang trên mớ tóc bạc
cái nghề đạm bạc cao quý, mang nặng nó trong đêm tối và mưa bão.
Mưa vẫn đổ lớn. Hai thầy trò đứng sát vào nhau hơn. Thầy nhìn trò, gật đầu:
“Các anh đổi thay nhiều lắm. Trưởng thành cả rồi. Nhưng mà ở đâu và bao giờ
các anh vẫn nhận ra tôi, tôi vẫn nhận ra các anh. Anh thì vẫn còn nguyên vẹn
cái nhìn lơ đãng ra ngoài cửa lớp những buổi trưa mùa hạ”.
Y trả lời:
“Vâng, con vẫn thế. Con vẫn nhớ con như thế”.
Giọng thầy trầm trầm trong tiếng mưa đổ rào rào:
“Chúng ta vẫn thế”.
Đôi mắt sâu của thầy nhìn xuôi theo con đường dài, qua màn mưa về tận cuối
đường, xa hơn cái xa của cuối đường:
“Chiến tranh đổi thay hình thể những ngả đường trên đó chúng ta đi. Tất cả
trở nên khó khăn cực nhọc và chua xót hơn cũ. Những ụ đất. Những hầm hố.
Những chiếc cầu đổ. Hình như mưa bão cũng nhiều hơn”.
Và thầy thở dài:
“Chúng ta là những con người cũ đang tập đi trên những con đường mới”.
Rồi thầy quay lại hỏi:
“Còn anh, bây giờ anh làm gì?”
“Thưa thầy con đi buôn”.
“Đi buôn?”
“Con bỏ học từ sau Cách mạng tháng Tám. Thuyền hàng của con chắc bây giờ đang
ngược dòng đi lên ở giữa khoảng Rót Rét. Con sẽ đón thuyền ở vùng Bương Cấn
và nếu đêm nay ngớt mưa sẽ đi thẳng tới Phú Thọ”.
Người thầy “Thế à” một tiếng nhỏ rồi không nói gì nữa. Tính thầy vẫn ít nói.
Mưa ào ào trên đầu. Trước mắt họ dòng sông Đáy đục đỏ chảy đi hung dữ. Bãi xa
mịt mùng bên kia. Người học trò đứng lùi lại phía sau và nhìn thấy sát tầm
mắt, những sợi tóc bạc gió thổi lay tạt trên khuôn mặt mà trông nghiêng vẫn
đựng đầy cái vẻ trầm lặng cũ, những ngày xưa nhìn xuống Y trên một nền bảng
đen. Những kỷ niệm những hình ảnh của một lớp học vừa trở về lướt thướt và
buốt lạnh trên khoảng đường này. Những chùm hoa mùa hạ đỏ chói chang trên góc
cửa sổ, sự hé mở của những giấc mộng ban đầu nở từ những chùm hoa rực rỡ ấy,
nhịp bồng bềnh đẩy đưa của tâm hồn chạy đến những chân trời những thế giới
hoang vu. Cánh bướm mỏng của niềm rung động mới. Những tấm kính sáng trong.
Tiếng giảng bài trầm trầm đi giữa hàng ghế. Tà áo thâm và cái đỉnh mũ trắng.
Những bực gạch mưa làm mòn cạnh đi lên từng cửa lớp. Lối kiến trúc cổ kính
của một mái trường xây cất trên nếp thành đổ nát cũ lượn vòng giữa những hàng
cây và những ao đầm. Thành phố ở dưới với tiếng hú dài của một tiếng còi tàu
kéo theo những vệt khói còn treo lâu trên nền trời. Ý niệm thứ nhất về không
gian trong chuyến đi tưởng tượng. Vụ hè sắp tới thấp thoáng hình ảnh con
đường mất hút dưới nắng.
*
Y nhớ thầy đã về sau một buổi tựu trường có nhiều thuyên
chuyển. Cũng một buổi sáng mưa lớn. Có tiếng giày từ ngoài hành lang đi tới.
Thầy vào, đứng lại một giây nhìn mọi người, nói: “Chào các anh”, đoạn đi
thẳng lên bục cao. Giờ học thứ nhất được dành cho sự làm quen nhau. Người
thầy bày tỏ nỗi vui riêng sau mười mấy năm ở rừng được đổi về một trường
thành phố.
Thầy nói: “Trường cũ ở sát biên giới Hoa - Việt, học trò nửa Kinh nửa thiểu
số. Trên ấy đêm rừng dài và buổi sáng nào cũng dầy đặc sương trong lớp học
vừa mở cửa. Rừng thì trùng điệp ở chung quanh. Sân trường đôi khi còn in
những dấu chân thú dữ. Và rét thì rét ghê rét gớm. Các học trò chân tay cũng
cóng buốt và mặt mũi xám tái lại. Phải đóng kín cửa cho hơi nóng truyền đi
một lúc sau mới làm việc được”.
Hình ảnh của một lớp học biên giới được gợi lên bằng giọng nói đặc biệt trầm
trầm. Cái lối kể chuyện của thầy cũng khác. Và ngay lập tức, trong số bốn
mươi lăm học trò chăm chú lắng nghe, từ một chỗ ngồi tận đáy lớp nhìn lên, Y
cảm thấy mến yêu ngay người thầy học mới. Một nỗi mến yêu đặc biệt chưa từng
có. Tưởng như một khám phá, một đổi thay lớn.
Trong một cuộc đời học trò, từng năm học đi lên, mỗi năm lại gặp một người
thầy, nhưng trong tất cả những người thầy đó, thường vẫn chỉ có một người mà
về sau lúc đã giã từ cửa lớp, ở mãi chỗ sâu xa cách biệt trong cuộc đời, mỗi
lần nhớ lại là người học trò lại nhớ trước nhớ ngay đến người thầy ấy. Tại
sao? Có thể vì một nét mặt, một giọng nói, được khắc sâu hơn vào dĩ vãng. Có
thể vì một sự bắt buộc nào đó, trừu tượng và siêu hình, khiến cho tương quan
tình cảm vượt khỏi mức bình thường, chứa đựng một ý nghĩa rộng lớn hơn.
Bài luận đầu tiên của Y được nhiều điểm nhất lớp. Một sự lạ. Ba hôm sau khi
thầy trả bài, gọi đến tên, ngợi khen và mỉm cười bảo Y hãy đọc cho cả lớp
nghe một đoạn văn hay, Y đứng dậy, tờ giấy trên tay run run và giây phút đó
đã là cả một dấu son rực rỡ trong cái lịch sử học trò của Y từ trước đến nay
vốn rất tầm thường tăm tối.
Y lười và lơ đãng. Trên tất cả các môn học, điểm số bao giờ cũng ở dưới cùng.
Một sự đội sổ toàn diện. Suốt đời Y nhớ mãi cái giờ học lịch sử ấy của một
tên học trò đội sổ ngồi tối tăm ở cuối lớp, lần đầu đứng lên ngượng nghịu,
hồi hộp đọc cho cả một lớp im sững thán phục cái thành công thứ nhất của đời
mình. Ngồi xuống còn cảm động.
Cả lớp không tìm hiểu được nguyên nhân sự đổi thay đột ngột này. Chính Y cũng
không hiểu. Y đã viết bài luận ấy cho một người xem, nó là cái biểu tỏ cụ thể
của một tình cảm chân thật và tốt đẹp gửi đến cho một người thầy đã tả được
một cái trường học biên giới bằng “những dấu chân thú dữ” và “sương trắng dầy
đặc cửa lớp buổi sớm”.
*
Mưa vẫn đổ lớn.
Buổi chiều như đã muốn đến từ bãi sông bên kia. Trời thấp và xám. Con thuyền
đầy hàng ngược dòng ở giữa khoảng Rót Rét bồng bềnh trong ướt lạnh còn là
điểm vui ấm bé nhỏ so với tâm sự của người thầy mất trường, không biết sẽ về
một nơi nào trong mưa bay.
Hai người cùng cúi đầu suy nghĩ. Thầy nói:
“Anh vừa nói hiện anh đi buôn đấy nhỉ?”
“Dạ”.
“Các anh làm thật nhiều nghề. Mỗi người một đường. Cuối tháng trước tôi có
gặp một anh không rõ đã học tôi năm nào, làm khẩn hoang ở một đồn điền Nho
Quan. Vùng ấy lam chướng, nước độc, rất có hại cho sức khỏe. Trông anh ta
xanh yếu đáng ngại. Cứ như anh đi đây đi đó trên một con thuyền, có lẽ lại
hay hơn”.
“Kể thì mấy năm nay, từ ngày ra trường con chưa từng có dịp được đi nhiều,
thấy nhiều như bây giờ. Nhưng nghề buôn không phải là một chí hướng thích
hợp. Nhiều lúc con vẫn cảm thấy đang làm một việc vô ích”.
Người thầy đáp:
“Tôi biết. Nhưng chúng ta bây giờ thường vẫn phải làm ngay cái việc nhìn thấy
trong tầm tay với mà không có quyền từ chối, lựa chọn. Thế hệ các anh biết
bao nhiêu người hiện đang đứng lạc vị trí, băn khoăn tìm đường. Ở tuổi các
anh thật đau đớn. Chúng tôi thì không nói làm gì. Nhiều lúc cực nhọc vất vả,
tôi vẫn thầm cảm ơn trời còn cho mình được cầm cái thước kẻ giảng bài. Tôi
làm gì khác được nếu thôi dạy học?”
Thầy cười khẽ:
“Thói quen của nghề nghiệp đấy: Thấy các anh là hỏi về dự định vào đời. Không
thích đi buôn, anh muốn làm gì?”
“Có một lần trong giờ luận, thầy nói đùa con có thể trở thành nhà văn, con
vẫn ao ước thực hiện được câu nói đùa ấy”.
“Thế ư! Tôi không nhớ nữa, nhưng nếu có nói thì nói thực đâu phải đùa. Phải
rồi, Việt văn là môn học xưa kia anh ham thích nhất”.
Giọng thầy trở nên ân cần:
“Cố gắng đi. Biết đâu chẳng một ngày tôi được đọc văn của một người học trò
cũ là anh. Niềm an ủi lớn nhất của một người thầy vẫn là được thấy người học
trò cũ của mình đi vào tương lai trên lối đi đã được phác định từ trong cửa
lớp”.
Mưa bỗng ngớt đi, tiếng đổ ào ạt dừng lại. Mé sông bên kia, bờ bãi mịt mùng
ban nãy nổi lên dần dần. Nhưng vòm trời thì vẫn thấp nặng và nghi ngút hơi
nước. Trận mưa lớn vừa ngớt chỉ để sửa soạn cho một trận mưa lớn khác sắp đổ
xuống.
Hai người ra khỏi gốc cây. Người thầy nhìn lên trời:
“Đã có thể đi được rồi. Tôi phải đi xuống Ty bây giờ cho kịp”.
Thầy quay lại, cánh tay gầy yếu đặt lên vai người học trò cũ:
“Lâu lắm mới gặp nhau tôi cám ơn các anh còn nhớ đến tôi. Các anh bây giờ đã
khôn lớn cả, đã tự trưởng thành trong những kinh nghiệm, tôi cũng không có
điều gì phải khuyên bảo nữa. Thôi anh ở lại”.
Giây phút giã từ này thật là cảm động.
“Con ân hận không được gặp thầy lâu. Con theo thuyền độ nửa tháng bán hàng
xong rồi sẽ trở lại vùng này. Xin thầy địa chỉ để con được lại thăm trường
mới”.
Người thầy gạt đi:
“Chính tôi hiện giờ cũng không biết rồi sẽ được thuyên chuyển đi đâu. Liên
khu trong, một trường mới mở trong núi hay là nghỉ dạy vĩnh viễn không chừng.
Chắc khó gặp lại, anh còn nhớ đến tôi là đủ và đừng băn khoăn về vấn đề tìm
thăm tôi”.
Người thầy bước đi, cái bị cói nằm trên bờ vai gầy, gậy trúc chống xuống
đường lầy. Y chạy theo thầy:
“Con đi buôn cũng không đến nỗi túng thiếu lắm. Thật tình không dám nghĩ đến
chuyện trả ơn, nhưng con có giúp thầy được điều gì không?”
Người thầy lắc đầu mỉm cười:
“Tôi một thân một mình cũng không cần gì. Cám ơn anh. Thôi anh trở lại”.
Y đứng sững giữa con đê nhìn theo bóng dáng cổ kính của người thầy. Cái bị
cói, cái gậy trúc, những sợi tóc bạc cứ nhỏ dần mãi. Rồi những cái điểm bé
nhỏ ấy nhòa đi sau màn mưa.
Y gặp lại người thầy học cũ của Y lần ấy là lần cuối cùng. Bán xong chuyến
hàng, Y lên bộ về thẳng Vân Đình. Hỏi thăm Ty Học chính ở đó, Y được biết
người ta đã nói với thầy là các trường bị phá hủy gần hết, phải đợi một thời
gian để lập trường mới và người thầy đã bỏ đi không để lại địa chỉ.
*
Đến nay đã mười tám năm.
Viết văn, tôi thực hiện được cái ước vọng duy nhất của thuở nhỏ. Trong số
những nguyên nhân thầm kín thúc đẩy tôi, tôi ghi nhận lời thầy khuyên nhủ cố
gắng ngày nào trên quãng đường lầy.
Sự đổi thay quyết định một đời người thường vì những nguyên nhân nhỏ. Ở đây
có thể vì lời khuyên của một người tôi kính yêu.
Từ đó tôi không gặp lại thầy, cũng không trở lại một cửa lớp nào nữa. Nhưng
kỷ niệm còn giữ được của buổi học ấy, nỗi cảm động đứng giữa hàng ghế đọc bài
luận ấy cho cả lớp nghe – nhớ lại – vẫn đưa tôi trở về được với cái thế giới
học trò. Nó nằm trong chu vi một lớp học, nhưng rộng và riêng biệt đúng như
một thế giới. Chùm hoa phượng, những phiến kính sáng trong, cái đỉnh mũ
trắng, những ngày hè chói nắng. Câu văn đầu tay vụng dại, bỡ ngỡ. Trên tất
cả, khuôn mặt trầm lặng của thầy ngó xuống như một nỗi bình yên.
Bây giờ đôi khi ngừng tay trên một trang bản thảo, lúng túng trước một danh
từ, một ý tưởng diễn đạt khó khăn, tôi lại thấy những hàng chữ dập dập xóa
xóa trước mắt bỗng phảng phất giống với trang giấy nháp của bài luận cũ. Hình
ảnh người thầy lúc đó lại hiện lên. Tôi muốn được gặp lại, để nói, ít nhất
cũng một lần, với thầy:
“Những trang giấy này có được một phần lớn nhờ thầy”.
Nhưng mà những dòng chữ tôi viết bây giờ chắc không bao giờ được biết tới
những dòng mực đỏ phê điểm ấy nữa. Buổi gặp mặt cuối cùng. Con đường xa hút
dưới mưa trắng. Số tuổi chất nặng lên cuộc đời đã xế chiều. Giọng nói trầm
trầm ấy đã chìm lặng, tôi linh cảm như vậy. Cái gậy trúc ấy chắc đã rời khỏi
cánh tay gầy yếu, rơi xuống một nơi nào đó, ở ngoài kia.
Trích : Chuyến tàu
trên sông Hồng
Mai Thảo
|