- Lời Tri Ân Và Cảm Tạ
- Lời Phi Lộ Huệ thu
- Diễn Văn Khai Mạc Đại Hội Bùi Thắng Lợi
- Trang Ảnh Ngày Xưa & Vịnh Nữ Tướng Bùi Thị Xuân
- Đà Lạt Thắng Cảnh Và Huyền Thoại Nguyễn Trọng
- Nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang Tạ Thế Trần Trung Thuần
- Vườn Thơ Năm Cũ Đan Quế [thơ]
- Ngày Xuân Gặp Bạn Cũ & Xuân Hải Ngoại [thơ]
- Dốc Nhà Làng - Cam Lĩnh / Lan Hinh & Nhớ Việt Trang
- Tâm Minh Ngô Tằng Giao [thơ]
- ĐàLạt Tàn Thu - Hoa Gọi Nắng Mùa Đông [thơ] ViệtTrang
- Việt Nam Quê Hương Ngao Nghễ Nhạc Nguyễn Đức Quang
- Đại hội Cựu học sinh trung BT X &THĐ Đalat Phong Châu
- Lửa Tắt Bình Khô Rượu Tuỳ Bút Phạm Mai Hương
- Nét Phát Thảo Của Vườn Địa Đàng Tuỳ Bút Cao Thu Cúc:
- Thơ Trần Vấn Lệ - Đà lạt Đà Lạt
- Lửa cháy rừng Điêu Tàn & Cảm ơn Biển Hồng Trần Vấn Lệ [thơ]
- Đọc Thơ Trần Vấn Lệ Nguyễn Mạnh Trinh
- Đẹp Bước Vân Du Tâm Minh Ngô Tằng Giao [thơ]
- Nói Với Em Lớp Sáu [thơ] Trần Bích Tiên
- Bài viết về bài thơ Nói Với Em Lớp Sáu TVL
- Huyển Thoại núi LangBiang Chuyện Kể Nguyễn Trọng
- Nhớ Về ĐàLạt Ngày Xưa Tuỳ Bút Trần NgọcToàn
- Cười … Cuối Tuần Mua Sách Sưu tầm
- Thơ Trào Phúng Kịch Cười Sài Môn Lý Thu [thơ]
- NguyễnThúc Soạn-Canada [thơ] Cánh Chim Bạt Gió
- ĐàLạt Hoa Hướng Dương nở Tháng 11 [[thơ] ] Huệ Thu
- Ngược Dòng Thời Gian Cao Thu Cúc
- Duyên Hội Ngộ [thơ] Nguyễn Hữu Toản
- Kỷ Niệm Trong Tôi Tùy Bút Đông Quỳ
- Tháng 5 Đà Lạt [thơ] Phong Châu
- Chuyện Tình Chim Yến bài sưu tầm
- Trang Thơ Chúc Mai …[thơ]
- Đồi Cù Đà Lạt Biên Khảo Mai Thái Lĩnh
- Đà Lạt Trong Ký Ức Tùy Bút Thanh Xuân
- Cảm Ơn Em Nhắc Cho Anh Nhớ [thơ] Lê Bặc Liêu
- Rừng Thu [thơ] Cao Thu Cúc
- Thi Ca Có Nhu Cầu Đổi Mới Không? Tiểu Luận Huệ Thu
- Nghìn Năm Hồ Dễ Mấy Ai Quên truyện ngắn Nguyễn Thị Ngọc Dung
- Bài Thơ cho bạn [thơ] HuệThu
- Nhớ Mì Quảng Đà-Lạt Nguyễn-Quang-Tuyến
- Hoa Giáp Năm Ngọ [thơ] Bùi Ngọc Tô
- Bùi Thị Xu ân ĐàLạt, Ngàn Hoa [thơ] Đông Anh
- Năm Cuối Cùng Tôi Dạy Học [thơ] Trần Vấn Lệ
- Trường Đại Học Quên Lãng Cao Thu Cúc
- Đà Lạt Bây Giờ & Gây Nhung Nhớ - Mưa - [thơ] Duy Việt
- Chiến Y Làm Đẹp Phố Phường [thơ] Lệ Khánh
- Chiều Gia Định Nhớ Na Uy [thơ] Lệ Khánh
- Nhớ Chùa Linh Sơn Đà Lạt Tâm Minh Ngô Tằng Giao
- Chuyện Xưa [Thơ] Chúc Mai
- Nhớ Trường Cũ [thơ] HuệThu
- Người Hát Rong Nhạc Vàng Truyện Ngắn Trần Ngọc Toàn
- Có Một Lần [thơ] Phạm Bá Đức
- Về Thăm Trường Bùi Thị Xuân [thơ] huệ thu
- Điều Quan trọng trong cuộc sống
- Mùa Hè Đã Qua Về Đại Hội THĐ &BTX Đà Lạt Ký Sự Phong Châu
- Hồi Hướng [thơ] Bùi Ngọc Tô
- Trường Bùi Thị Xuân Xưa Và Nay Tuỳ Bút Cao Thu Cúc
- Kỷ Niệm Khó Quên Tuỳ Bút Kiều Tuý Đa
- Hát Cùng Bình Minh [thơ] Cao Thu Cúc
- Chuyện Tếu lâm Sưu tầm “Mua Cỏ Khô”
- Thằng Chế Guitar Truyện Ngắn Nguyễn Trọng
- Âm Cảnh & Nhớ Ngoại [thơ] Trần Vấn Lệ
- Mẹ Tôi Tùy Bút Thiên Hương
- Trên Du Thuyền Lênh Đênh Bút Ký Phong Châu
- Vũ Khúc Thiên Thai Tuỳ Bút Phương Hồng
- Hoa Xuân [thơ] Cao Thu Cúc
- Chuyện Hai Người Đà Lạt Truyện Ngắn Nguyễn Đỗ Lâm Viên
- Xé Thơ Rồi Lại Làm Thơ [thơ] Huệ Thu
- Về Quê Xưa [thơ] Nguyễn Thúc Soạn
- Ngôi Nhà Xưa [Thơ] Trần Bích Tiên
- Cổng Trường Xưa [thơ] Đông Anh
- Gửi Về Bên Ấy [thơ] Phạm Thị Lệ
- Cô Giáo Của Tôi Thư Anh Vũ
- Chúng Ta Vẫn Còn Tổ Quốc [thơ] Trần Trung Tá
- Viết Về Một Ngôi Trường Kỳ Cựu Tại Đà Lạt Biên Khảo Lê Mộng Hoa
- Chị Em Hộc Bàn Tuỳ Bút Hoàng An
- Thư Học Trò Gửi Cô Chu Cẩm Anh Chu Duy Tuyền & Nguyễn Hiền
- Tôi Đưa Tay Vẫy Về [thơ] Trần Vấn Lệ
- Đường Xưa Lối Cũ Tuỳ Bút Trần Ngọc Toàn
- Gió Đà Lạt [thơ] Trần Vấn Lệ
- Ơn Này Bao Giờ Mới Trả Tuỳ Bút Phạm Mai Hương
- Chuyện Kẻ Cuối Năm Ký Sự Phong Châu
- Bạn gửi cho mình ĐàLạt xưa [thơ] TVL
- Không Đề Tháng năm [thơ] Cao Thu Cúc
- Tổ Tông Của Loài Người ký vui Cao Thu Cúc
- Độc Ẩm Ngâm [thơ] Trần Vấn Lệ
- The Thinker & Không Đề Tháng Tư [thơ] Cao Thu Cúc
- Đà Lạt Vẫn Còn Đây Tuỳ Bút Nguyễn Thị Ngọc Dung
- Trang Thơ Trào Phúng Sài Môn Chủ Nhân
- Trang Chúc Mừng & Quảng Cáo
Ơn Này Bao Giờ
Mới Trả !
Phạm Mai Hương
Một ngọn đồi rộng bao quanh thác Cam Ly chạy dài từ cuối đường Hoàng Diệu đến chân lăng Nguyễn Hữu Hào – cha của Nam Phương Hoàng Hậu, vợ vua Bảo Đại – là buôn làng của người K’ Ho. Người Kinh ít khi bén mảng vào đây, họ gọi vùng đất đó là huyện Mọi. Người K’Ho sống yên bình thanh thản, những mái nhà sàn thấp thoáng dưới rặng thông già, cạnh ngọn thác duy nhất nằm ở trung tâm thành phố, mỗi mái nhà có mảnh vườn nhỏ cùng đàn gia súc ngộ nghĩnh: con gà thượng bao giờ cũng ốm yếu, chân dài lêu khêu; con heo mọi đen ngòm, nhỏ như chiếc bình tích, thịt ăn ngon, ít mỡ; những trái dưa gang to đùng, nhiều nước mà không thơ m…
Trong huyện Mọi có ngôi ký túc xá hai tầng dành học sinh trung học nội trú đến từ những buôn làng lân cận. Học sinh K’Ho không chỉ học trường Việt, con nhà khá giả còn học ở trường D’Adran, Lasan…Những khuôn mặt đen đúa bớt vẻ cam chịu số phận, đôi mắt to như mắt nai đầy nghị lực, thể chất mạnh khoẻ. Con gái vẫn mặc sà rông, tayđeo đầy hạt cườm nhưng con trai toàn mặc âu phục. Sát huyện Mọi còn có ngôi trường nội trú của một nhà dòng Thiên Chúa Giáo.Trong khuôn viên trường có ngôi nhà thờ đặc biệt dành cho người dân tộc. Nhà thờ không rộng, thiết kế theo kiểu nhà sàn, hai mái cao hơn mười mét, lợp ngói đỏ nhìn bề thế nhưng giản đơn nằm lọt giữa rừng thông và những hàng bông giấy đỏ thắm, khiến người ta ngẩn ngơ những tưởng cảnh rừng núi Phi Liêng lạc vềđây. Gần nhà thờ là dãy ký túc xá dành cho nữ học sinh, xuống xa hơn dành cho nam sinh, có cả sân đá bóng, sân bóng chuyền và một rừng thông bạt ngàn để học sinh cắm trại. Khu ký túc này dành cho con người giàu cóở các buôn làng sung túc hoặc con các công chức cao cấp người sắc tộc ở Cao nguyên Trung phần.
Năm 1975, học sinh trở về nhà, tứ tán, không còn tổ chức nào tài trợ cho các em ăn học và nhà trường không được phép nuôi học sinh. Cùng lúc ấy, anh rễ tôi đi học tập ở Hàm Tân, chị Mai Trang – Chị ruột của tôi - bỏ dạy ở Quảng.
Đức về Dalạt xin dạy lại. Thuở đó các cô gái miền Bắc vào Nam chỉ thích ngành thương nghiệp hay du lịch, ngành giáo dục cần văn hoá và ít tiền lương nên thiếu nhân sự, chị Mai Trang được nhận ngay. Chị được phân dạy ở ngôi trường nhỏ có bốn lớp trong khuôn viên huyện Mọi được đổi tên là xóm 13, ngôi trường nhỏ mang cái thác bên cạnh: trường tiểu học Cam Ly.
Nhà trường gồm một dãy lớp học hai tầng lầu, có bốn lớp, mỗi lớp chừng hơn chục em, Soeur Liên làm hiệu trưởng, soeur Liệu dạy lớp một, ông thầy dân tộc Ha Nhan dạy lớp hai ,vì các em chưa sỏi tiếng Kinh, chị tôi dạy lớp bốn, chị Nguyệt cùng ở trong xóm dạy lớp ba. Ngôi trường nằm giữa gian nhà nhỏ dành cho các soeurs và nhà thờ do cha Trung quản. Cha Trung chưa đến tuổi ba mươi nhưng thông thạo ngôn ngữ của người K’Ho, Cill, Radé…Cha còn giỏi thuốc nam như một người dân tộc nguyên thuỷ.
Người Thượng trong xóm 13 giờ nghèo nàn. Các tổ chức nhân đạo trước kia không còn nữa nên họăn những gì thu hoạch trong mảnh vườn nhỏ bé, không thể trông chờ vào nguồn thu nhập nào khác. Ông già làng còn khá trẻ, chững chạc lịch sự như một người Kinh nay được làm xóm trưởng. Mỗi sáng chị tôi cùng chị Nguyệt đi dọc con đường mòn từ cuối đường Hoàng Diệu đến đầu thác Cam Ly rồi thong thả quay về trường. Các em khi thấy bóng dáng cô mới bắt đầu lũ lượt ra khỏi nhà theo chân vào lớp. Chúng không íới gọi nhau.Học sinh dân tộc ít cãi nhau hoặc to tiếng, có gì không phải, chúng rì rầm to nhỏ bằng tiếng của mình, không cần cô phân xử.Thông minh nhất là Halay, con ông xóm trưởng; xinh xắn nhất là K’Mai. Chương trình học lúc ấy không rõ ràng, vả lại các em cũng chưa sỏi tiếng Việt, các cô dạy vài ba phép tính cộng trừ, xong buổi học sinh để lại sách vở tại trường, không được mang về nhà sợ cha mẹ lấy để vấn thuốc hút. Buổi tối, chị tôi cùng chị Nguyệt đi qua những con đường tối đen như mực lên trường dạy bổ túc văn hoá. Dưới ánh đèn những người thượng ngồi học nhưng bụng đói, người khen khét mùi nắng.
Đồng lương chỉ gồm 18 kg bo bo hoặc bột mì; tấm tem phiếu mua nửa kg đường, nửa cân thịt cho cả năm nhưng chị tôi vẫn thảnh thơ i vì mẹ tôi đã mở lại lò làm bánh phở, tuy không đắt nhưng đủ nuôi các con. Chị tôi thong dong được một năm, thỉnh thoảng lại bỏ học trò lấy phép đi thăm nuôi chồng đi cải tạo Cùng năm ấy, tôi dạy trường Đoàn Kết- ngôi trường Tân Sanh cũ của người Hoa- nằm ngay trung tâm thành phố..
Hết niên khoá 75-76, có chỉ thị từ thành phố: tất cả giáo viên độc thân phải đi xuống huyện hoặc vùng kinh tế mới! Khi ấy tôi chưa lập gia đình và cũng chưa bao giờ rời xa gia đình, chị tôi sợ tôi xuống vùng khỉ ho cò gáy khó lấy chồng nên lên phòng giáo dục xin đi thay.Tôi là trường hợp độc thân duy nhất được ở Dalat mà không có sự quen biết.Chị tôi xuống dạy trường Bồng Lai cách Dalat hơn 20 km.
Một năm sau, vì lý do an ninh chính trị, một buổi sáng, dưới sự giám sát của công an và quân đội, người Thượng ở xóm 13 di dời vào tận Tà Nung rồi sau vào Tà In, các em học trò theo bố mẹ bỏ trường. Trường Cam Ly trở thành phân trường của trường Trần Bình Trọng và giờ biến thành trường dạy lái xe của thành phố. Và sau đó chị tôi cũng nghỉ việc vì lý lịch của chồng, chị về Saigon trở thành người bán trà thô.
Ngay vào thời điểm ấy, tôi không cảm nhận được sự cao cả của sự hy sinh của chị tôi dành cho mình, mặc nhiên nhận như thể đó là điều mà bất cứ người chị nào cũng phải làm cho em. Phải mất một thời gian khá dài, chừng hơn chục năm sau, khi các bạn cùng tuổi đi xuống huyện đợt đó, đã mất tuổi trẻ ở vùng đất cằn cỗi, sức khoẻ không còn vì ngã nước, muốn về lại Dalat phải chạy vạy mất tiền. Đa phần các bạn đều quá thì khi trở về lại nhà. Phải mất nhiều năm nữa, tôi mới cảm nhận được sự cao cả của chị tôi ; một cô gái mảnh mai, tay xách chiếc túi xắc, đứng ngã ba đường, đất bụi mịt mù, giữa trưa hanh nắng để đón xe về nhà mà lòng ngỗn ngang chuyện chồng trong trại cải tạo, chuyện mình phải sống thế nào trong hiện tại, chuyện gia đình mình đông em út trong thời bao cấp với lý lịch của ba tôi quá nặng nề…
Tôi nghĩ về chị tô i- chị Mai Trang - rất lâu, ngoài tình ruột thịt, tôi nợ chị nhiều thứ mà có lẽ hết cả đời này tôi cũng không thể nào trả được!
Phạm Mai Hương
Gửi ý kiến của bạn